Bản án 14/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2021/TLHS- HS ngày 18 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Mạnh D, sinh năm 1982 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT: Số nhà 374, chung cư CT4A, khu đô thị V, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở: Tổ 12, phường H, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức T và bà Lại Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 15/10/2001, UBND tỉnh Hà Nam ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thời gian 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 11/3/2005, Tòa án nhân dân thị xã Phủ Lý (nay là thành phố Phủ Lý) xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 31/7/2006, Công an phường L, TP P xử phạt vi phạm hành chính 200.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 22/10/2007, Tòa án nhân dân thị xã Phủ Lý (nay là thành phố Phủ Lý) xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/11/2009, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 25/5/2011, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 26/9/2013, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/10/2015).

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 21/11/2020, chuyển tạm giam từ ngày 27/11/2020 đến nay; Có mặt.

* Bị hại: Anh Phạm Quang N, sinh năm 1984; Trú tại: Số nhà 1B, ngõ 241, đường B, tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; Vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Việt H, sinh năm 1985; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 21/11/2020, Trần Mạnh D đi bộ theo đường L về phía chợ B. Khi đến ngã tư đường L giao với đường B, D rẽ trái đi vào ngõ 241 đường B, tổ 8, phường L, thành phố P thì nhìn thấy anh Phạm Quang N từ trong nhà cầm 01 túi nilon màu đen đi ra ngoài nên D nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. D đi đến trước cửa nhà anh N thấy cửa mở, trong nhà không có ai, trên mặt bàn giữa phòng khách để một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, ốp lưng màu nâu đen. D đi vào trong nhà cầm chiếc điện thoại trên bỏ vào túi quần bên phải đang mặc thì bị anh Nguyễn Việt H (đối diện nhà anh N) phát hiện bắt quả tang, đồng thời báo Công an phường L đến giải quyết.

Quá trình bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, có ốp lưng màu nâu – đen.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 105/2020 ngày 27/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố P, kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 6S màu hồng, ốp lưng bằng nhựa màu nâu đen, đã qua sử dụng, giá còn 2.400.000đ.

* Về trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Quang N không có yêu cầu, đề nghị gì về bồi thường trách nhiệm dân sự.

* Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS-PL ngày 18/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Mạnh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Mạnh D từ 15 đến 18 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu về việc bồi thường trách nhiệm dân sự nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu hồng, ốp lưng bằng nhựa màu nâu đen là tài sản hợp pháp của anh Phạm Quang N đã được Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phủ Lý trả lại cho anh Nam là đúng pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản ghi nhận hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 21/11/2020, tại tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Trần Mạnh D lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Phạm Quang N đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, ốp lưng màu nâu đen trị giá 2.400.000đ thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng trái phép chất ma túy” và nhiều lần bị Tòa án có thẩm quyền xử phạt tù về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường bất chấp pháp luật, khó cải tạo bản thân.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn làm ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Phủ Lý, gây tâm lý hoang mang, lo lắng và bức xúc trong nhân dân đối với việc quản lý tài sản, làm xã hội mất ổn định. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm, phòng ngừa chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác về việc bồi thường trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, ốp lưng màu nâu đen. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của anh Phạm Quang N. Ngày 08/12/2020, Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phủ Lý ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại trên cho anh N là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Xử phạt bị cáo Trần Mạnh D 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2020.

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Mạnh D phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;