TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2021/TLST- HS ngày 11 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Thái P, sinh năm 1994, tại tỉnh Đồng Nai; tên gọi khác: Không:
Nơi cư trú: Ấp 2, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: Ấp 2, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy P (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1957; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư; có vợ Nguyễn Thị T, sinh năm 1995 và chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 29/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng; ngày 12/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc tạm đình chỉ chấp hành biện pháp xử lý hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16/7/2020 đến ngày 24/7/2020 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Đặng Văn N, sinh năm 1979; nơi cư trú: Ấp 2, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/7/2020, Nguyễn Thái P, trú tại ấp 2, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai là đối tượng nghiện ma tuý điều khiển xe mô tô biển số 72L4-0182 đi đến xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai để mua ma túy về sử dụng. P sử dụng điện thoại di động hiệu Masstel gọi vào số điện thoại 0393.878.368 gặp đối tượng tên Dung (không rõ họ, địa chỉ) hỏi mua 300.000 đồng ma túy loại Heroin và xin thêm một ít ma túy đá. Dung hướng dẫn P đi vào con hẻm thuộc khu vực xã L, huyện T nhận ma túy. Đến nơi, P đưa cho Dung 300.000 đồng và nhận 04 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng (Hêroin):
01 bịch nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (ma túy đá). P bỏ số ma túy vào bịch nylon treo ở xe mô tô rồi điều khiển xe quay về. Khi đi đến ấp 4, xã V, huyện V thấy lực lượng Công an xã V tuần tra đuổi theo, P lấy số ma túy ném vào lề đường bên phải và bỏ chạy. Khoảng 05 phút sau không thấy ai, P quay lại chỗ ném ma túy để tìm thì bị Công an xã V bắt giữ bàn giao cho Công an huyện Vĩnh Cửu xử lý theo quy định.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Masstel; 01 xe mô tô biển số 72L- 0182; 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng ký hiệu M1, 04 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng ký hiệu M2.
Tại Kết luận giám định số: 1459/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2020 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M1 được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,0447g, loại Methamphetamine. Mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M2 được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1890g loại Heroin. Toàn bộ đối tượng sau giám định được hoàn lại trong niêm phong số 1459/KLGĐ-PC09.
Bản Cáo trạng số: 10/CT-VKSVC ngày 11/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố bị cáo Nguyễn Thái P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thái P từ 14 tháng đến 16 tháng tù; về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu số 1459/KLGĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masstel; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không phát biểu tranh luận và không trình bày lời bào chữa.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, trong thời gian qua đã thấy rất ăn năn hối cải; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thái P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/7/2020, tại ấp 4, xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thái P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,0447g ma túy loại Methamphetamine và 0,1890g ma túy loại Heroin thì bị lực lượng Công an xã V kiểm tra, phát hiện giữ người và bàn giao cho Công an huyện Vĩnh Cửu lập biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Bị cáo P khai nhận số ma túy trên là của bị cáo mua về cất giấu để sử dụng.
Bị cáo đồng ý với Kết luận giám định số: 1459/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2020 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và không có ý kiến gì thêm.
Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập, nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thái P đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện được Nhà nước độc quyền quản lý về việc cất giữ, vận chuyển cũng như mua bán các loại chất này; tuy nhiên bản thân muốn sử dụng ma túy nên bị cáo đã mua về để cất giữ mà sử dụng. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước mà còn là nguyên nhân phát sinh tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật… Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do là đối tượng nghiện ma túy, không có nơi cư trú ổn định, nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng bản thân, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Do vậy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng để bị cáo lấy đó làm bài học cho mình mà tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, sửa chữa sai lầm, đồng thời cũng để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ nêu trên để quyết định hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu số 1459/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masstel do có liên quan đến tội phạm. Đối với 01 xe mô tô biển số 72L4-0182, ngày 16/7/2020, bị cáo mượn của ông Đặng Văn N, ông N không biết P sử dụng đi mua ma túy; kết quả xác minh xác định xe mô tô trên do ông Hoàng Ngọc A, cư trú tại ấp T, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đứng tên, năm 2007, ông A đã bán xe cho người không rõ tên, địa chỉ; khoảng năm 2016, ông N mua xe mô tô trên của người không rõ tên, địa chỉ nhưng chưa làm thủ tục sang tên, xe không có giấy chứng nhận đăng ký, nên chuyển giao Công an huyện Vĩnh Cửu tiếp tục làm rõ xử lý là phù hợp theo quy định của pháp luật.
[7] Đối với đối tượng tên Dung (không rõ họ địa chỉ) có liên quan đến việc bán ma túy cho P, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu tiếp tục xác minh làm rõ, khi có căn cứ tiếp tục xử lý là phù hợp.
[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 45, Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 327, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái P 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước từ ngày 16/7/2020 đến ngày 24/7/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu số 1459/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masstel, model izi 100. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 14/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 14/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về