Bản án 14/2021/HSPT ngày 19/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 14/2021/HSPT NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 359/2020/HSPT ngày 04/12/2020 đối với bị cáo Lê Đức K phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 328/2020/HSST ngày 30/09/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Đức K; tên gọi khác: Không; sinh ngày 13/10/1996; tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Buôn K, xã B, huyện A, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Lê Đức Đ, sinh năm: 1966; Con bà: Trần Thị Kim D, sinh năm: 1972. Hiện đều trú tại: Buôn K, xã B, huyện A, tỉnh Đắk Lắk; Gia đình bị cáo có 04 anh, em ruột, bị cáo là con đầu; Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt.

- Bị hại: Bà Trần Thị Kim C, sinh năm 1978 Địa chỉ: đường N, tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố Buôn Ma Thuột và bản án hình sự sơ thẩm của tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột thì nội dung vụ án như sau:

Vào năm 2018, gia đình Lê Đức K có bán 01 mảnh đất tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho gia đình ông Lê L nhưng sau đó xảy ra tranh chấp với bà Trần Thị Kim C (là dì ruột của K). Ngày 21/02/2020, bà C làm giấy uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn Q đại diện giải quyết vấn đề tranh chấp đất trên. Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 23/02/2020, bà C cùng ông Nguyễn Văn Q đến nhà bà Nguyễn Thị T (là mẹ ruột của bà C), để gặp và giải thích cho bà T, về việc bà C uỷ quyền cho ông Q đại diện trong việc tranh chấp đất đai. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, Lê Đức K cùng em gái là Lê Thị Kim N đến thăm bà ngoại, thì thấy bà C đang giải thích về việc uỷ quyền cho ông Q, nên K có ngồi xuống cùng nói chuyện và không đồng ý với việc uỷ quyền, thì ông Q đi về trước. Sau đó, khi bà C đi ra đến hiên định đi về, thì K gọi bà C nói trả sổ hộ khẩu của bà T (bà C cũng là thành viên hộ gia đình và đang giữ sổ hộ khẩu từ năm 2018 đến nay); Do bà C không đưa sổ hộ khẩu cho K, nên giữa hai người xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Do bực tức về việc bị bà C giữ sổ hộ khẩu và còn làm đơn tranh chấp làm cản trở việc mua bán đất giữa gia đình K với gia đình ông Lê L không hoàn thành được, nên K đã dùng tay tát trúng mặt bà C, rồi K dùng tay túm tóc kéo bà C vào phòng khách, trong quá trình giằng co làm bà C ngã xuống nền nhà, K ngồi lên người bà C, đồng thời dùng hai tay đấm liên tục nhiều cái trúng vào mặt bà C làm bà C bị thương tích chảy máu vùng trán và nhiều vết trầy xước vùng mặt. Lúc này, anh Nguyễn Ngọc H và anh Vũ Thái C là hàng xóm vào can ngăn, nên K không đánh bà C nữa mà bỏ đi về nhà. Sau đó bà C gọi ông Q quay lại chở bà C đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên mà không báo Cơ quan Công an giải quyết. Do quá bức xúc về việc bà C có hành vi tranh chấp đất sai quy định với gia đình, nên Lê Đức K đã có hành vi sử dụng nick Facebook “Cậu Vàng (Lê Đức K)” đăng bài viết trên mạng xã hội Facebook với nội dung bà C có hành vi lừa đảo trong lĩnh vực buôn bán bất động sản, về việc bà C có hành vi muốn chiếm đoạt đất của gia đình K. Sau đó, do không hoà giải được, nên bà C làm đơn tố giác Lê Đức K về hành vi gây thương tích và xúc phạm danh dự đối với bà C trên mạng xã hội, đến Công an thành phố Buôn Ma Thuột để xử lý theo quy định của pháp luật và bà C làm đơn đề nghị xử lý hình sự đối với Lê Đức K về hành vi cố ý gây thương tích.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 384/TgT-TTPY, ngày 08/4/2020, của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo vùng trán nằm giữa hai cung mày, mờ dần về phía trên, kích thước 1cm x 0,1cm.

- Vết xây xát da làm biến đổi sắc tố da nằm ngang vùng trán, hơi lệch phải kích thước 1cm x 0,3cm..

- Ba vết xây xát da làm biến đổi sắc tố da ở dưới mắt phải từ trên xuống dưới, từ phải qua trái.

+ Vết thứ nhất kích thước 1cm x 0,1cm hơi cong.

+ Vết thứ hai cách vết thứ nhất 2cm về phía dưới, kích thước 1,3cm x 0,2cm.

+ Vết thứ ba cách vết thứ hai 1,5cm về xuống dưới, kích thước 1cm x 0,2cm.

- Năm sẹo vùng má phải, từ trên xuống dưới, từ phải qua trái.

+ Sẹo thứ nhất nằm chéo kích thước 1cm x 0,3cm.

+ Sẹo thứ hai nằm ngang kích thước 2,5cm x 0,3cm.

+ Sẹo thứ ba hơi chéo kích thước 1cm x 0,3cm.

+ Sẹo thứ tư nằm dọc kích thước 0,5cm x 0,2cm.

+ Sẹo thứ năm nằm ngang nham nhở kích thước 2,5cm x 0,3cm.

- Vết chợt da làm biến đổi sắc tố da dưới sau tai phải kích thước 1cm x 0,2cm.

- Vết chợt da làm biến đổi sắc tố da góc cằm phải kích thước 1cm x 0,2cm.

2. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 19%.

3. Vật tác động: Vật tày có cạnh.

Tại bản án số 328/2020/HSST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Đức K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Đức K: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 05/10/2020, bị cáo Lê Đức K kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáoLê Đức K và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm người bị hại bà Trần Thị Kim C có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự - Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đức K, sửa bản án số 328/2020/HSST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Đức K: 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Lê Đức K tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 23/02/2020, tại đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, do có mâu thuẫn trong gia đình, nên Lê Đức K đã dùng tay đánh gây thương tích cho bà Trần Thị Kim C (là dì ruột), với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 19%. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Đức K về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét mức hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đối với bị cáo Lê Đức K mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại Tòa án cấp phúc thẩm người bị hại bà Trần Thị Kim C có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.

Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Đức K. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 328/2020/HSST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về án phí: Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Đức K – Sửa một phần bản án sơ thẩm số 328/2020/HSST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Đức K: 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Đức K không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2021/HSPT ngày 19/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:14/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;