Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 119/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2021 về việc ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị N.B, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Đường L, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú hiện tại: Đường C, phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

- Bị đơn: Anh Dương Văn M.T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Đường L, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam N; đóng tại địa chỉ: Xã C, huyện L, tỉnh Quảng Trị; có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 19/01/2021 và bản tự khai, nguyên đơn là chị Hồ Thị N.B trình bày:

Chị Hồ Thị N.B và anh Dương Văn M.T quen biết và có thời gian tìm hiểu nhau khoảng một năm thì về chung sống với nhau. Đến tháng 3 năm 2012, chị B và anh T mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không chịu khó làm ăn, thường xuyên chơi bời lêu lỏng, vi phạm pháp luật hình sự và bị kết án tù. Sau khi chấp hành án xong trở về với gia đình, anh T vẫn không thay đổi, không chăm lo cho gia đình, vợ con mà vẫn tiếp tục đi vào con đường phạm tội và hiện đang phải chấp hành án tại Trại giam N.

Nay chị B nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không giải quyết được, tình cảm vợ chồng không còn nên khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dương Văn M.T.

Về con chung: Chị Hồ Thị N.B khai có 03 con chung gồm: Dương T.L (Họ tên cũ: Hồ T.L), sinh ngày 01/5/2009, Dương K.H, sinh ngày 02/4/2012 và Dương Văn G.B, sinh ngày 25/11/2013. Hiện tại, chị đang trực tiếp chăm sóc cả 03 con nên chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cả 03 con chung sau khi ly hôn.

Về cấp dưỡng: Chị B không yêu cầu anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản (nợ chung): Chị B khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (Bản chính); Giấy khai sinh các cháu Dương T.L (Họ tên cũ: Hồ T.L), Dương K.H, Dương Văn G.B (Bản sao); Giấy chứng minh nhân dân chị Hồ Thị N.B (Bản sao); Sổ hộ khẩu chủ hộ Dương Văn T.T (Bản sao).

- Tại bản tự khai ngày 30/3/2021, anh Dương Văn M.T trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn, con chung đúng như chị B đã trình bày. Nay tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên đồng ý tự nguyện ly hôn với chị Hồ Thị N.B. Đối với 03 con chung thì anh T đồng ý giao cả 03 cháu cho chị B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh T không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, đồng thời có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và xét xử vắng mặt anh.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế phát biểu ý kiến như sau:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đều chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng, không có vi phạm gì cần phải kiến nghị khắc phục.

Các đương sự trong vụ án đã thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo đúng quy định tại Điều 70, 71 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh Dương Văn M.T đang chấp hành án phạt tù, không thể đến Tòa án để tham gia tố tụng, chị B và anh T đều có ý kiến đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải là đảm bảo về thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận, cho chị Hồ Thị N.B ly hôn anh Dương Văn M.T.

Về con chung: Yêu cầu về việc được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung của chị Hồ Thị N.B là phù hợp với điều kiện và nguyện vọng của các cháu cũng như ý kiến của anh T, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn: Chị B không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc nguyên đơn là chị Hồ Thị N.B phải chịu theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của các đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Dương Văn M.T vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Xét yêu cầu ly hôn của chị Hồ Thị N.B, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Chị Hồ Thị N.B và anh Dương Văn M.T kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã được Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 07/3/2012. Quá trình chung sống, giữa chị B và anh T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc do anh T không chịu khó làm ăn và chăm lo cho vợ con, nhiều lần vi phạm pháp luật dẫn đến phải chấp hành hình phạt tù trong thời gian dài và hiện tại anh T cũng đang phải thi hành án tại Trại giam N. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh T đã trầm trọng không giải quyết được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân là xây dựng cuộc sống gia đình ấm êm, hạnh phúc không thể thực hiện được; chị B có nguyện vọng ly hôn và anh T cũng chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng, yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị N.B về việc xin ly hôn anh Dương Văn M.T là có cơ sở nên cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Hồ Thị N.B và anh Dương Văn M.T xác nhận có 03 con chung gồm: Dương T.L (Họ tên cũ: Hồ T.L), sinh ngày 01/5/2009, Dương K.H, sinh ngày 02/4/2012 và Dương Văn G.B, sinh ngày 25/11/2013. Chị B có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 03 con chung, anh T không có điều kiện để nuôi con và chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử xét cần giao cả 03 con chung cho chị B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng: Chị Hồ Thị N.B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản và nghĩa vụ về tài sản (nợ chung): Chị B và anh T đều xác nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Hồ Thị N.B phải chịu án phí ly hôn theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 57 và Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị N.B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị N.B được ly hôn anh Dương Văn M.T.

2. Về con chung: Giao 03 con chung gồm: Dương T.L (Họ tên cũ: Hồ T.L), sinh ngày 01/5/2009, Dương K.H, sinh ngày 02/4/2012 và Dương Văn G.B, sinh ngày 25/11/2013 cho chị Hồ Thị N.B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu trưởng thành (lần lượt đủ 18 tuổi). Anh Dương Văn M.T không phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Buộc chị Hồ Thị N.B phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị B đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002311 ngày 09/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế. Chị Hồ Thị N.B đã nộp đủ án phí ly hôn.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt nên có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt nên có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;