Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI -TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 443/2020/TLST- HNGĐ ngày 28-12-2020 về tranh chấp: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04-3-2021; Thông báo về việc mở lại phiên tòa số: 17/2021/TBXX ngày 31-3-2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đào Thị Thúy H, sinh năm 1986 Địa chỉ: Tổ 6, phường Đ, thành phố Y, tỉnh Yên Bái Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoài T, sinh năm 1978 Địa chỉ: Tổ 6, phường Đ, thành phố Y, tỉnh Yên Bái Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24-12-2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đào Thị Thúy H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Hoài T đăng ký kết hôn ngày 29-12-2009 tại UBND phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái trên cơ sở tự nguyện được tự do tìm hiểu. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 11 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không tu trí làm ăn, thường xuyên tụ tập uống rượu, không quan tâm đến gia đình dẫn đến kinh tế gia đình ngày càng khó khăn, con thường xuyên đau ốm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhưng không có kết quả. Chị H xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị H xác nhận vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Phương Tr, sinh ngày 25-4-2010 và Nguyễn Ánh D, sinh ngày 29-10-2018. Ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung, nợ chung : Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại bản tự khai và tài liệu có trong hồ sơ, bị đơn Nguyễn Hoài T trình bày: Về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn như chị H trình bày là đúng. Anh T cũng xác nhận sau khi kết hôn vợ chồng có sảy ra mâu thuẫn. Tuy nhiên anh T cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng không phải là mâu thuẫn lớn mà chủ yếu là bất đồng về quan điểm sống. Anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh T xác nhận vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Phương Tr, sinh ngày 25-4-2010 và Nguyễn Ánh D, sinh ngày 29-10-2018. Ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa:

- Chị Đào Thị Thúy H thay đổi yêu cầu về việc nuôi con chung. Chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Ánh Dương và để anh Nguyễn Hoài T trực tiếp nuôi dương con chung là Phương Tr. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con - Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đào Thị Thúy H + Về hôn nhân: Chị Đào Thúy H được ly hôn anh Nguyễn Hoài T + Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 29-10-2018 cho chị Đào Thị Thúy H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.

Giao cháu Nguyễn Phương Tr, sinh ngày 25-4-2010 cho anh Nguyễn Hoài T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.

Chị H và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

+ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Đào Thị Thúy H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và tranh chấp về nuôi con với anh Nguyễn Hoài T. Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Anh T có nơi cư trú tại tổ 6, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Bị đơn là anh Nguyễn Hoài T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị Đào Thị Thúy H và anh Nguyễn Hoài T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái ngày 29-12-2009 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 11 năm thì sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống trong việc cùng chăm sóc con cái và phát triển kinh tế gia đình. Hiện chị H xác định tình cảm vợ chồng đã hết và yêu cầu được giải quyết ly hôn. Anh T không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có giải pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H, cho chị H được ly hôn anh T.

[3] Về con chung: Chị H và anh T có hai con chung là Nguyễn PH Trang, sinh ngày 25-4-2010 và Nguyễn Ánh Dương, sinh ngày 29-10-2018. Chị H và anh T đều có đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung của chị H và anh T là phù hợp với quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, cháu Nguyễn Ánh D còn nhỏ nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của mẹ. Cháu Nguyễn Phương Tr có nguyện vọng được ở với bố. Do đó, để đảm bảo quyền, lợi ích và nguyện vọng của con, đảm bảo sự ổn định cuộc sống, học tập của con nên giao cháu Nguyễn Phương Tr cho anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi. Giao cháu Nguyễn Ánh D cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh T đều không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Đào Thị Thúy H được ly hôn anh Nguyễn Hoài T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 29-10-2018 cho chị Đào Thị Thúy H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.

Giao cháu Nguyễn Phương Tr, sinh ngày 25-4-2010 cho anh Nguyễn Hoài T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.

Chị H và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị H, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đào Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: AA/2017/0006722 ngày 24-12-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;