Bản án 14/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay ngày 29 tháng 04 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2020/HSST ngày 24/02/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/QĐ-TA ngày 17/4/2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn T, Sinh ngày 24/ 01/ 1990, tại Thanh Sơn, Phú Thọ; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Hộ khẩu thường trú: Khu Dộc Cày, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Đoàn thể: Quần chúng; Học vấn: 11/12; Bố đẻ: Nguyễn Thanh H, sinh năm 1960; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1963; Anh chị em ruột: Cú 03 anh em (lớn nhất sinh năm 1984, bị cáo là nhỏ nhất); Vợ, con: Chưa; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 02 tiền án: Bản án số: 255/2013/HS-ST ngày 30/9/2013 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/12/2014; Bản án số: 13/2016/HS-ST ngày 19/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, xử phạt 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2018.

Bị cáo thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn tại xã Thạch khoán, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ từ ngày 06/03/2020 đến ngày 26/03/2020.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Người bị hại: Ông Phạm Thanh T, Sinh năm 1965

Địa chỉ: Khu 8, TT. Thanh Thủy, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thanh H, Sinh năm 1960

2. Bà Nguyễn Thị S, Sinh năm 1963.

Đều có địa chỉ: Khu Dộc Cày, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

- Người làm chứng: Ông Khổng Hữu C, Sinh năm 1957

Địa chỉ: Khu Dộc Cày, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

(Ông T, ông H, bà S và ông C đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ sáng ngày 24/10/2019, Nguyễn Văn Toàn đi bộ trên đường tỉnh lộ 316 xã Thạch Khoán đi thị trấn Thanh Thủy, huyện Thanh Thủy. Khi đi đến khu vực gara ô tô “Mạnh Đức” thuộc Khu Nhang Quê, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, Toàn phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - Wave S, màu đen bạc, BKS: 19L1- 074.03 của ông Phạm Thanh T (để tại sân của gara ô tô giáp đường quốc lộ 316), xe mô tô vấn cắm chìa khóa điện nhưng không có người trông coi, nên T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này. T đi đến mở chìa khóa điện, đề nổ máy rồi điều khiển xe mô tô đi đến thành phố Hà Nội. khi đi đến khu vực quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Toàn mở cốp xe mô tô thấy bên trong có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 3.1 Plus màu xám, T đến một cửa hàng điện thoại tại quận Nam Từ Liêm bán chiếc điện thoại di động được 500.000đồng. Sau đó T tiếp tục điều khiển xe mô tô đến một hiệu cầm đồ tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, cầm cố chiếc xe mô tô được 7.000.000đồng, rồi tiêu xài cá nhân hết số tiền này.

Ngày 12/11/2019, ông Nguyễn Thanh H (bố đẻ Nguyễn Văn Toàn) cùng với ông Khổng Hữu C (là bạn ông H), đã liên lạc gặp được T tại khu vực Bệnh viện quân y 105 thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Sau đó T đưa đến hiệu cầm đồ mà T đã cầm cố xe mô tô trước đó, chuộc xe mô tô về đem trả cho ông Phạm Thanh T và bồi thường cho ông T số tiền là: 3.000.000đồng là trị giá chiếc điện thoại di động mà T đã bán.

Ngày 18/11/2019, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã trưng cầu định giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - Wave S, màu đen bạc, BKS: 19L1-074.03 và chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 3.1 Plus màu xám của ông Phạm Thanh T. Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 48/KL- HĐĐGTS ngày 18/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Thanh Sơn. Kết luận trị giá chiếc xe mô tô tại giá trị thời điểm bị mất là: 9.500.000 đồng, chiếc điện thoại trị giá: 2.350.000 đồng. Tổng cộng trị giá tài sản trộm cắp là: 11. 850.000đồng.

Ngày 05/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã ra Quyết định khởi tố vụ án Hình sự số: 75/CQĐT; Quyết định khởi tố bị can số: 135/CQĐT và ra Lệnh bắt bị can để tạm giam số: 15/CQĐT đối với Nguyễn Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội, Nguyễn Văn T bỏ trốn khỏi địa phương nên không thực hiện được. Ngày 13/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã ra Quyết định truy nã số: 04/CQĐT đối với Nguyễn Văn T. Ngày 26/02/2020, Nguyễn Văn T đã đến Công an tỉnh Phú Thọ đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hiện nay, Nguyễn Văn T đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Trong quá trình điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Sau khi trộm cắp xe mô tô của ông Phạm Thanh T, Toàn đi đến thành phố Hà Nội, bán điện thoại di động và cầm cố xe mô tô lấy tiền tiêu xài cá nhân và làm thuê tại Hà Nội, quá trình bỏ trốn T không vi phạm pháp luật gì. Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - Wave S, màu đen bạc, BKS: 19L1-074.03 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 3.1 Plus màu xám của ông Phạm Thanh T. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là: 11. 850.000đồng (chiếc xe mô tô giá trị là: 9.500.000 đồng, chiếc điện thoại di động trị giá 2.350.000đồng). Ngày 12/11/2019, ông Nguyễn Thanh H đã trả cho ông Phạm Thanh T chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - Wave S, màu đen bạc, BKS: 19L1- 074.03 và bồi thường cho ông T số tiền là: 3.000.000đồng là trị giá chiếc điện thoại di động. Nay ông T không đề nghị bồi thường gì thêm về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 16/CT-VKS ngày 23/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Nguyễn Văn T từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng đối với bị cáo

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và số tiền bồi thường khắc phục hậu quả nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo lấy đó làm bài học cho bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không có gì oan sai. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Để có tiền tiêu xài cá nhân và lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản. Khoảng 07 giờ ngày 24/10/2019, Nguyễn Văn T đã trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - Wave S, màu đen bạc, BKS: 19L1- 074.03 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 3.1 Plus màu xám của ông Phạm Thanh T tại gara ô tô “Mạnh Đức” thuộc Khu Nhang Quê, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn. Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 48/KL-HĐĐGTS ngày 18/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Thanh Sơn. Kết luận trị giá chiếc xe mô tô tại thời điểm bị mất là 9.500.000 đồng, chiếc điện thoại trị giá 2.350.000 đồng. Tổng cộng trị giá tài sản trộm cắp là 11. 850.000đồng (Mười một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Căn cứ vào các tài liệu pháp lý có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ để xác định bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Nhận định về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo lợi dụng sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản nên đã lén lút chiếm đoạt tài sản thể hiện bị cáo là người rất liều lĩnh và táo bạo, coi thường pháp luật xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, hậu quả của vụ án là nghiêm trọng, bị cáo là người có nhân thân xấu, bị cáo đã có 02 tiền án chưa được xóa án tích, trong đó có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, không tu chí làm ăn lại tiếp tục phạm tội. Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn gây khó khăn trong công tác điều tra. Ngày 13/02/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã ra Quyết định truy nã đối với bị cáo. Tuy nhiên đến ngày 26/02/2020 bị cáo đã đến Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ để đầu thú. Do đó cần xử lý bị cáo với mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội, đồng thời phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật Hình sự 2015.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo đã tác động để gia đình chủ động đi tìm kiếm tài sản và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục toàn bộ thiệt hại cho người bị hại. Ngoài ra, bố đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Thanh H được thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang của Chủ tịch nước, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bị cáo đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên quá trình điều tra xác minh bị cáo không có thu nhập, không có tài sản gì riêng có giá trị nên cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7]. Về trách nhiệm dân sự:

Ngày 12/11/2019, ông Nguyễn Thanh H( bố đẻ bị cáo Toàn) đã trả cho bị hại là ông Phạm Thanh T chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - Wave S, màu đen bạc, BKS: 19L1- 074.03 và bồi thường cho ông T số tiền 3.000.000đồng là trị giá chiếc điện thoại di động. Ông T đã nhận lại tài sản và không đề nghị bồi thường gì thêm về dân sự. Bố đẻ bị cáo là ông Nguyễn Thanh H và bà Nguyễn Thị S cũng không có yêu cầu gì đối với bị cáo Toàn về số tiền ông, bà đã chuộc chiếc xe máy mà bị cáo T đã trộm cắp để về trả cho ông T nên Hội đồng xét xử không xem xét phần trách nhiệm dân sự.

[8]. Về vật chứng của vụ án: Đối với 02 ( Hai) chiếc USB màu trắng chứa hình ảnh toàn bộ vụ việc là chứng cứ của vụ án. Hiện 02 ( Hai) chiếc USB này đang được lưu giữ trong hồ sơ và được đánh số bút lục nên cần tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

[9]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 36 ( Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Văn T.

* Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 02 (Hai) chiếc USB màu trắng, nhãn hiệu KINGSTON có lưu trữ các đoạn Video clip.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;