Bản án 14/2020/HSST ngày 20/04/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 14/2020/HSST NGÀY 20/04/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tam Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Văn T; Sinh ngày: 04/05/1969;

Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Sinh trú quán: Khu 10, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bố đẻ: Vũ Văn K, sinh năm 1933, hiện ở tại xã H, T, Phú Thọ;

Mẹ đẻ: Hà Thị Q (đã chết);

Vợ: Khất Thị H, sinh năm 1973, hiện lao động tự do tại xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

Con: Có 03 con (lớn nhất 28 tuổi, nhỏ nhất 17 tuổi);

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/01/2020, đến ngày 06/01/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại tại xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ.(có mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1, anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1983

Địa chỉ: khu 10, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ. ( vắng mặt )

2, anh Đo Văn C, sinh năm 1981

Địa chỉ: khu 14, xã Hiền Quan, huyện T, tỉnh Phú Thọ. ( vắng mặt )

3, anh Hà Xuân T, sinh năm 1975

Địa chỉ: khu 12, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (vắng mặt )

4, anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1989

Địa chỉ: khu 4, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (vắng mặt )

5, chị Khuất Thị H, sinh năm 1973

Địa chỉ: khu 10, xã Hiền Q, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 03/01/2020, tại nhà ở của Vũ Văn T (ở khu 10, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ), tổ công tác của Công an huyện Tam Nông phát hiện bắt quả tang Vũ Văn T đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề cho Nguyễn Văn A, sinh năm 1983 (ở khu 10, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ). Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ của Vũ Văn T01 mảnh giấy bằng vỏ bao thuốc lá Thăng Long có 01 mặt màu trắng ghi các số tự nhiên (là số lô, số đề cùng số tiền tương ứng) mặt sau màu vàng có chữ viết và chữ ký của Vũ Văn T, 01 chiếc bút bi mực xanh và số tiền 7.250.000 đồng (bảy triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) và 01 điện thoại di động (nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS màu vàng, số IMEI 1: 353289070927332 có số thuê bao 0967.223.894); Thu giữ của Nguyễn Văn A 01 mảnh giấy màu trắng có ghi các số tự nhiên (là các số lô, số đề cùng số tiền tương ứng) và số tiền 4.050.000đồng (Bốn triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). Tổ công tác của Công an huyện Tam Nông đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và dẫn giải các đối tượng về trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông để tiếp tục điều tra làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Nông, Vũ Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Lợi dụng việc gia đình có quán bán hàng tạp hóa, nên thuận lợi cho việc đánh bạc bằng hình thức ghi “số lô, số đề” nhằm thu lời bất chính, nên từ ngày 01/01/2020 Vũ Văn T đã bật đầu tổ chức ghi “số lô, số đề”. Cách thức đánh bạc cụ thể như sau: Các số lô, số đề là các số tự nhiên có hai chữ số từ 00 đến 99, người chơi có thể chọn mua các số tự chọn với số tiền tùy ý. Đối với số đề: Nếu số đã mua trùng với hai số cuối giải đặc biệt kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thường trong ngày, thì người chơi sẽ được hưởng số tiền gấp 70 lần số tiền đã tham gia đánh đề. Đối với số lô thì tính theo điểm bằng 23.000đ/01 điểm, nếu số đã mua trùng với hai số cuối của tất cả các giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày thì người mua được 80.000đồng/1 điểm lô, nếu số lô trùng nhiều lần trong các giải thì người mua sẽ nhận số tiền tương ứng gấp số lần trùng nhau số lô đã mua. Đối với Lô xiên thì so sánh các số xiên với hai số cuối của tất cả các giải, nếu người mua lô xiên 2 số đã trọn đều trùng thì người mua sẽ nhận được gấp 10 lần số tiền đã mua, nếu không trúng thì người mua sẽ mất số tiền đã mua. Sau khi ghi số lô, số đề T không chuyển bảng đề cho ai mà giữ lại và chi trả cho người tham gia đánh bạc nếu họ trúng, còn lại nếu không trúng thì T hưởng toàn bộ số tiền thu được. Tính đến thời điểm trước ngày 03/01/2020, T đã thu lời bất chính được tổng số tiền là 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 03/01/2020, Vũ Văn T đang ở nhà thì thấy Đỗ Văn C (sinh năm 1981,ở khu 14, xã Hiền Quan) nhắn tin từ số điện thoại 0394.286.496 (T lưu trong điện thoại “C”) đến số điện thoại của T bảo T ghi cho Cán các số lô gồm: số lô 26, 78, mỗi số 10 điểm; số lô 42, 67, mỗi số 05 điểm. Tổng số tiền Cán mua số lô là 690.000 đồng (trong đó Cán đã gửi Tân 500.000đ từ hôm trước, số tiền còn nợ lại là 190.000 đồng),

Đến 16 giờ 14 phút cùng ngày, Hà Xuân T, sinh năm 1975 (ở khu 12, xã Hiền Quan, huyện Tam Nông) nhắn tin từ số điện thoại 0976.027.117 (T lưu trong điện thoại “Thu Bính”) đến số điện thoại của T bảo T ghi cho T các số lô gồm: số lô 37, 73, mỗi số 05 điểm. Tổng số tiền Thu mua số lô là 230.000 đồng. Tân nhắn tin lại cho T là “ok”.

Khoảng 17 giờ 04 phút cùng ngày, Nguyễn Văn B, sinh năm 1989 (ở khu 04, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ) nhắn tin từ số điện thoại 0975.119.152 (T lưu trong điện thoại “Bình Bãi”) đến số điện thoại của T để ghi các số đề gồm: số đề 95 = 240.000 đồng, các số đề 59, 32 mỗi số = 120.000 đồng, các số đề 72, 45, 54, mỗi số mua 60.000 đồng. Tổng số tiền B mua số đề của Tân là 660.000 đồng. T nhắn tin lại cho B là “ok”. (T thống nhất với các đối tượng sau khi có kết quả xổ số miền bắc thì sẽ thanh toán tiền mua số lô, đề vào ngày hôm sau).

Khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, Nguyễn Văn A đi đến nhà Tân hỏi mua số lô, số đề. T đồng ý, A đưa cho T một mảnh giấy được xé từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long có một mặt trắng (gọi là cáp đề) ghi các số lô, số đề gồm: số đề đầu 5 (gồm các số từ 50 đến 59) mỗi số 50.000 đồng, các số đề 23, 32, 24, 42, 16, 61, 02, 20, 12, 21 mỗi số 100.000 đồng; các số lô 04, 39, 57, 75 mỗi số 20 điểm; lô xiên hai 39, 75 = 100 điểm = 1.000.000đồng. Tổng số tiền A mua số lô, số đề của T là 4.340.000 đồng, A được T khuyến mại cho 60.000 đồng nên A dùng số tiền này ghi thêm số đề 96. Tổng số tiền A ghi số lô, số đề của T là 4.400.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng). T sao chép các số lô, số đề của A đã mua ra một mảnh giấy trắng đưa cho A để theo dõi khi có kết quả, còn mảnh giấy A đem đến T giữ lại. Khi T và A đang thanh toán tiền cho nhau thì bị tổ công tác Công an huyện Tam Nông phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngoài ra, Vũ Văn T còn khai nhận vào các ngày 01/01/2020 và 02/01/2020 T còn ghi số lô, số đề cho một số người lạ mặt (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) thu được với tổng số tiền là 750.000 đồng (trong đó ngày 01/01/2020 là 500.000 đồng, ngày 02/01/2020 là 250.000 đồng), hai ngày đó không có ai trúng thưởng nên T hưởng toàn bộ số tiền thu được, số bảng đề, cáp đề T đã tiêu hủy nên không thu giữ được.

Các đối tượng Đỗ Văn C, Hà Xuân T, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc mua số lô, số đề, phù hợp với lời khai của T và phù hợp với kết quả khai thác dữ liệu trên điện thoại của các đối tượng như đã nêu trên.

Đối với số tiền 7.250.000 đồng thu giữ của Vũ Văn T khi bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định: Trong đó có 250.000 đồng là tiền thu lời bất chính từ hành vi bán số lô, số đề ngày 02/01/2020 của Tân. Còn số tiền 7.000.000 đồng là tiền của chị Khuất Thị H (là vợ T) đưa T để thanh toán tiền lấy hàng tạp hóa về bán, vì vậy Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H.

Quá trình điều tra, Vũ Văn T đã tự nguyện nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Nông số tiền 1.000.000 đồng (trong đó có 500.000đ là tiền Cán mua số lô của T, 500.000đ là tiền T thu lời bất chính ngày 01/01/2020); Đỗ Văn C tự nguyện giao nộp số tiền 190.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL màu đen, số IMEI1: 359366094709138 số thuê bao 0394.286.496; Hà Xuân Thu tự nguyện nộp số tiền 230.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đen, số IMEI 1 980027003015259, số thuê bao 0976.027.117; Nguyễn Văn A tự nguyện giao nộp số tiền 350.000 đồng; Nguyễn Văn B tự nguyện nộp số tiền 660.000 đồng (là số tiền và điện thoại của các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc với T). Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen kèm theo 01 thẻ sim số 0975.119.152 (là điện thoại Bình sử dụng để nhắn tin mua số đề của T) B đã làm mất khi đi chăm sóc bố đẻ bị ốm nằm điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ nên không thu giữ được.

Tại bản cáo trạng số: 17/CT - VKSTN - HS ngày 22 tháng 3 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Nông đã truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội "Đánh bạc" theo quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thú nhận hành vi phạm tội nay không còn lời bào chữa nào khác.

Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân huyên Tam Nông thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội: "Đánh bạc" .

- Đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, Điều 51; điều 36 Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt: Vũ Văn T từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ là 03 ngày (từ ngày 03/01/2020, đến ngày 06/01/2020) quy đổi bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ,

Đề nghị khấu trừ 5% đến 10 % thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ để nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Trường hợp bị cáo không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo quy định tại khoản 4, Điều 36 của Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo Vũ Văn T từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ để sung quỹ Nhà nước, nộp một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

*Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu xung công quỹ Nhà nước số tiền 6.730.000đ (sáu triệu bảy trăm ba mươi nghìn) đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam là tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc bút bi mực xanh đã qua sử dụng là vật chứng của vụ án (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông).

- Tịch thu bán sung quỹ nhà nước: 03 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS - thu của Vũ Văn T; 01 chiếc nhãn hiệu MASSTEL màu đen - thu của Đỗ Văn C; 01 chiếc nhãn hiệu FPT - thu của Hà Xuân T) đều đã qua sử dụng do các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc ( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông).

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Nông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Nông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định và hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định bị cáo có tội: Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang của cơ quan điều tra và vật chứng đã thu được phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 03/01/2020, Vũ Văn Tđã có hành vi đánh bạc bằng tiền thông qua hình thức ghi số lô, số đề cho các đối tượng Đỗ Văn C, Nguyễn Văn B, Hà Xuân T và Nguyễn Văn A, với tổng số tiền là 5.980.000 đồng (Năm triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng). Ngoài ra, vào các ngày 01/01/2020 và 02/01/2020, T còn có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề với một số người lạ mặt (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) và đã thu lời bất chính được tổng số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Vũ Văn T đã phạm vào tội: ''Đánh bạc" theo quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự.

Khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự quy định:

"1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm."

[3] Xét tính chất vụ án là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bởi lẽ vấn nạn cờ bạc là một trong các tệ nạn xã hội mà nhà nước ta đang quản lý chặt chẽ, nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân đánh bạc dưới mọi hình thức để làm lành mạnh các quan hệ xã hội, từ việc đánh bạc thường dẫn đến những tội phạm khác, ảnh hưởng đến trật tự công cộng vì vậy đấu tranh với tội này là rất cần thiết, cần đưa ra xét xử nghiêm trước pháp luật.

* Xét về vai trò nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Vũ Văn T không chịu tu dưỡng bản thân, lười lao động, do hám lợi nên ngày 03/01/2020 bị cáo đã có hành vi ghi số lô, số đề cho các đối tượng Đỗ Văn C, Nguyễn Văn B, Hà Xuân T và Nguyễn Văn A, với tổng số tiền là 5.980.000 đồng. Ngoài ra, vào các ngày 01/01/2020 và 02/01/2020, bị cáo còn ghi số lô, số đề với một số người lạ mặt được tổng số tiền 750.000 đồng nhằm thu lời bất chính, đáng nhẽ ra phải có hình phạt thật nghiêm. Xong xét thấy bị cáo trước khi thực hiện hành vi phạm tội chưa có tiền án, tiền sự gì. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình Sự đó là “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội có sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, thể hiện đường lối xét xử hình sự và chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

Căn cứ xác minh thu nhập của bị cáo cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo có thu nhập hàng tháng là 3.000.000đ/1 tháng. Do vậy, trong thời gian chấp hành án bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 điều 36 của Bộ luật hình sự và khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ để nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương thì bị cáo có thu nhập và có tài sản nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 điều 321 Bộ luật hình sự là phù hợp.

[5] Về vật chứng:

- Đối với 01 chiếc bút bi mực xanh đã qua sử dụng là vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 03 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS, số IMEI 1: 353289070927332 kèm theo 01 sim số 0967.223.894 - thu của Vũ Văn T; 01 chiếc nhãn hiệu MASSTEL màu đen, số IMEI 1: 359366094709138 kèm theo 01 sim số 0394.286.496 - thu của Đỗ Văn C; 01 chiếc nhãn hiệu FPT, số IMEI 1: 980027003015259 kèm theo 01 sim số 0976.027.117 - thu của Hà Xuân T) đều đã qua sử dụng do các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc cần tịch thu bán sung quỹ nhà nước là phù hợp.

- Đối với số tiền 6.730.000đ (sáu triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam (là tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc) là vật chứng của vụ án nên tịch thu sung công quỹ nhà nước là phù hợp.

- Đối với số tiền 7.000.000đồng là tiền của chị Khuất Thị H đưa Tân để thanh toán tiền lấy hàng tạp hóa về bán không liên quan đến việc đánh bạc, vì vậy Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen kèm theo 01 thẻ sim số 0975.119.152 (là điện thoại Bình sử dụng để nhắn tin mua số đề của T) Bình đã làm mất khi đi chăm sóc bố đẻ bị ốm nằm điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ không thu giữ được nên không xem xét là phù hợp.

[6] Đối với Nguyễn Văn A, Đỗ Văn C, Nguyễn Văn B và Hà Xuân Tlà những đối tượng tham gia đánh bạc với T bằng hình thức ghi số lô, số đề. Nhưng số tiền các đối tượng tham gia đánh bạc đều chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, mặt khác các đối tượng này nhân thân đều chưa bị kết án hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, gá bạc hoặc tổ chức đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều ha đã chuyển đến Công an huyện Tam Nông ra Quyết định xử phạt hành chính đối với các đối tượng trên là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với một số đối tượng đã mua số lô, số đề của T vào các ngày 01 và 02/01/2020( theo lời khai của T), Cơ quan điều tra chua xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của những người trên, nên chưa có căn cứ để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Văn T 18 (Mười tám ) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian tạm giữ là 03 ngày (từ ngày 03/01/2020, đến ngày 06/01/2020) quy đổi bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ, còn phải thi hành là 17 (Mười bảy) tháng 21 (hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho UBND xã H, huyện T tỉnh Phú Thọ giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian chấp hành án bị cáo Vũ Văn T phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ để nộp ngân sách nhà nước. Trường hợp bị cáo không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo quy định tại khoản 4, Điều 36 của Bộ luật hình sự. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng là 04 giờ/ 01 ngày và 05 ngày/01 tuần.

- Hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo Vũ Văn T 10.000.000đ ( Mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước, nộp một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Hủy lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 16/2020/LCĐKNCT-TA ngày 24/3/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

*Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu xung công quỹ Nhà nước số tiền 6.730.000đ (sáu triệu bảy trăm ba mươi nghìn) đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam là tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc. (Hiện đang tạm giữ tại tài khoản số: 3949.0.1053898.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông theo giấy ủy nhiệm chi ngày 27/3/2020).

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc bút bi mực xanh đã qua sử dụng là vật chứng của vụ án vì không còn giá trị sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông).

- Tịch thu bán sung quỹ nhà nước: 03 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS, số IMEI 1: 353289070927332 kèm theo 01 sim số 0967.223.894 - thu của Vũ Văn T; 01 chiếc nhãn hiệu MASSTEL màu đen, số IMEI 1: 359366094709138 kèm theo 01 sim số 0394.286.496 - thu của Đỗ Văn C; 01 chiếc nhãn hiệu FPT, số IMEI 1: 980027003015259 kèm theo 01 sim số 0976.027.117 - thu của Hà Xuân T) đều đã qua sử dụng do các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông).

- Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông đã trả lại cho chị Khuất Thị H số tiền 7.000.000đồng. Theo biên bản về việc trả lại tài sản ngày 28/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông)

*Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; điểm a Khoản 1, điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về thu, nộp và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000 đồng, tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng điều 26 Luật thi hành án dân sự, bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự, nếu không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 7a, điều 9 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo (có mặt) được quyền kháng cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2020/HSST ngày 20/04/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:14/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;