Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 24/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN N DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 14/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án N dân huyện Châu Thành A, tỉnh TV Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2020/TL.ST-HNGĐ, ngày 06 tháng 02 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXX-ST ngày 13 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự.

1.Nguyên đơn: Bà Dương Thị Mộng Tr (có mặt)

Địa chỉ: Ấp Trường B, xã Trường L, huyện C, tỉnh Hậu G

2.Bị đơn: Ông Bùi Văn TV (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Trường B, xã Trường L, huyện C, tỉnh Hậu G

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Dương Thị Mộng Tr trình bày: Tôi và chồng tôi anh Bùi Văn TV  được gia đình hai bên tổ chức đám cưới năm 2014 nhưng chưa đăng ký kết hôn, hôn N tự nguyện. Chúng tôi chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên N là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng ý kiến, chồng thường hay cờ bạc, đánh bành, đá gà…. nên thường xuyên cãi nhau dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc. Tôi và chồng tôi đã sống ly thân từ 2019 đến nay. Nay nhận thấy không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được nên tôi yêu cầu được ly hôn với chồng tôi là Bùi Văn TV.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Bùi TV N   (nam) sinh ngày 4/11/2014. Hiện nay cháu N đang sống chung với tôi. Sau khi ly hôn tôi yêu nuôi cháu N và yêu cầu anh TV cấp dưỡng theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết bị đơn anh Bùi Văn TV trình bày: Tôi thống nhất với lời trình bày của vợ tôi về thời gian kết hôn và nguyên N phát sinh mâu thuẫn: lúc trước tôi cũng có đá gà, đánh bài nhưng không có chơi ma túy. Hiện nay các tệ nạn đó thì tôi đã bỏ và tôi hiện đang đi làm công ty trên Bình Dương, Do tôi còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án xem xét.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Bùi TV N   (nam) sinh ngày 4/11/2014. Hiện nay cháu N đang sống chung với  vợ tôi. Sau khi ly hôn tôi thống nhất để vợ tôi nuôi cháu N và không yêu cầu cấp dưỡng

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Xác định việc thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ cũng như thủ tục tố tụng tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ông TV có yêu cầu xét xử vắng mặt nên đề nghị áp dụng Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn. Về nội dung giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 14, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn N và gia đình năm 2014; Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Về quan hệ hôn N: không công nhận bà Dương Thị Mộng Trvà ông Bùi Văn TV là vợ chồng; Về con chung: tiếp tục giao cháu Bùi TV N  (nam) sinh ngày 4/11/2014 cho bà Tr  nuôi dưỡng; ông TV cấp dưỡng mỗi tháng là 745.000 đồng/ tháng đến khi cháu N tròn 18 tuổi, Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Giữa bà Tr và ông TV tự nguyện tiến tới hôn N, có đăng ký kết hôn theo quy định. Quá trình chung sống, giữa bà Tr và ông TV phát sinh mâu thuẫn nên bà Tr nộp đơn yêu cầu ly hôn. Xét đây là vụ án hôn N và gia đình về việc tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay ông TV có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với ông TV.

[3] Về nội dung giải quyết vụ án: Giữa bà Tr và ông TV tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2013 có tổ chức đám cưới nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định.

Quá trình chung sống bà Tr và ông TV phát sinh mâu thuẫn vợ chồng bất đồng quan niệm sống, không hợp ý, chồng hay cờ bạc, dẫn đến vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên hôn N rơi vào tình trạng trầm TV, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn N không đạt được từ đó bà và ông đã ly thân nhau. Bà Tr đã nhiều lần tìm cách hàn gắn tình nghĩa vợ chồng nhưng không được, đến thời điểm ly hôn vẫn không đăng ký kết hôn theo Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa bà Tr xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn và xác định không còn tình cảm với ông TV nên cương quyết ly hôn, cho thấy từ thời điểm phát sinh mâu thuẫn gia đình đến nay thì ông TV không có biện pháp nào hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho thấy mâu thuẫn giữa bà Tr và ông TV là trầm TV, đời sống hôn N không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Tr, không công nhận bà Tr và ông TV là vợ chồng.

[4] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con chung của bà Tr, Hội đồng xét xử xét thấy: ông bà có 01 con chung là cháu Bùi TV N (nam) sinh ngày 4/11/2014, từ nhỏ đã sống chung với bà Tr đến nay, sau khi ông bà ly thân thì cháu N do bà Tr trực tiếp chăm sóc chu đáu, học hành đầy đủ, hiện cháu N đang học mẫu giáo tại trường Mẫu Giáo Trường Long Tây, do đó, để bảo đảm ổn định về tâm sinh lý cũng như về chổ ở cho cháu N tiếp tục được học hành và phát triển sau khi ông bà ly hôn nên Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu N cho bà Tr nuôi dưỡng đến khi tròn 18 tuổi. Ông TV có quyền và nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[5] Về mức cấp dưỡng: Tại phiên tòa, bà Tr yêu cầu ông TV cấp dưỡng theo quy định pháp luật, xét thấy căn cứ quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân gia đình thì cha; mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy, có căn cứ buộc ông TV có trách nhiệm cấp dưỡng cho cháu N đến khi tròn 18 tuổi, về mức cấp dưỡng chấp nhận theo yêu cầu của bà Tr tại phiên tòa là phù hợp quy định pháp luật, buộc ông TV cấp dưỡng mỗi tháng là 745.000 đồng đến khi cháu N tròn 18 tuổi khi án có hiệu lực.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: bà Tr và ông TV xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ án khác.

[7] Từ những tình tiết, chứng cứ nêu trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Bà Tr phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 14, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn N: Không công nhận bà Dương Thị Mộng Tr và ông Bùi Văn TV là vợ chồng.

Về con chung: tiếp tục giao cháu Bùi TV N (nam) sinh ngày 4/11/2014 cho bà Tr tiếp tục nuôi dưỡng. ông Bùi Văn TV có nghĩa vụ cấp dưỡng cháu N là 745.000 đồng/tháng cho đến khi cháu tròn 18 tuổi.

Ông Bùi Văn TV có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết, nếu sau này phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà  Dương Thị Mộng Tr phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng). Chuyển 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002173 ngày 06 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A thành tiền án phí dân sự sơ thẩm (bà Tr đã nộp xong).    

Ông Bùi Văn TV phải chịu án phí cấp dưỡng là 300.000 đồng.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được Niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 24/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:14/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;