TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐỐP – TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 14/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 28/3/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đốp xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 08/2019/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2019, đối với các bị cáo:
1. Điểu Thị L, sinh năm: 1985; Tên gọi khác: D; HKTT: Ấp M M, xã P T, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: không biết chữ; Dân tộc: Stiêng; con ông: Điểu Kh, sinh năm: 1952 và bà Điểu Thị E, sinh năm: 1954; HKTT: Ấp M M, xã P T, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Bị cáo có cH tên Điểu T, sinh năm: 1984 và 02 người con (lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2012). Bị cáo có 03 người anh (lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất sinh năm: 1997)
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giam ngày 18/10/2018 đến ngày 24/10/2018 được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. Điểu Thị H, sinh năm: 1991; Tên gọi khác: Tư; HKTT: Ấp M M, xã P T, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 01/12; Dân tộc: Stiêng; con ông: Điểu Kh, sinh năm: 1952 và bà Điểu Thị E, sinh năm: 1954; HKTT: Ấp M M, xã P T, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Bị cáo có cH tên Điểu T1, sinh năm: 1991 và 02 người con (lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017). Bị cáo có 04 người anh, 01 người chị và 02 người em (lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất sinh năm: 1997)
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1983;
- Ông Trần Văn Ph, sinh năm: 1990;
Cùng địa chỉ: Địa chỉ: Công an xã P T, huyện Bù Đốp.
Những người làm chứng:
- Bà Điểu Thị Ng, sinh năm: 1983; Địa chỉ: Ấp M M, xã P T, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước
- Ông Nguyễn Đức T2, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Ấp 1, xã Lộc Hưng, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.
- Anh Điểu D, sinh năm: 2000; Địa chỉ: Ấp M M, xã P T, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước
- Ông Mông Văn D1, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Ấp Điện Ảnh, xã Phước Thiện, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Người bào chữa cho các bị cáo Điểu Thị L, Điểu Thị H: Ông Đàm Văn Đ;
Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bình Phước - Chi Nhánh số 02 huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Người phiên dịch cho các bị cáo L, H: Điểu Thị Thu H1
Công tác tại: UBND Xã Th H1, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Ông T, ông D1, anh D vắng mặt, các đương sự còn lại có mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 15/10/2018 Công an xã P T tiếp nhận, giải quyết tin báo vụ việc đánh nhau xảy ra tại nhà bà Nguyễn Thị Quy tại Ấp M M, xã P T có liên quan đối tượng Điểu D. Khoảng 9 giờ sáng ngày 18/10/2018 Công an xã P T cử anh Nguyễn Văn H, phó Trưởng Công an xã, các anh Trần Văn Ph, Mông văn Ch là công an viên đến nhà Điểu D ngụ cùng ấp Mười Mẫu để mời Duy về trụ sở Công an xã làm việc. Việc thực hiện nhiệm vụ của anh H, anh Ch, anh Ph theo Lịch trực của Công an xã P T từ ngày 15/10/2018 đến ngày 21/10/2018 do Trưởng Công an xã Ngô Minh D3 ký.
Khoảng 10 giờ cùng ngày, anh Ph đang làm việc, lấy lời khai Điểu D thì có Điểu Thị L và Điểu Thị H cùng một số người thân của Điểu D đến trụ sở Công an xã P T. Tại đây L và H lớn tiếng chửi bới, đòi xông vào phòng làm việc nơi anh Ph đang làm việc với Điểu D. Lúc này anh H và anh Ph giải thích với H và L là đang làm việc và yêu cầu đi ra ngoài khu vực trụ sở Công an xã nhưng H và L không chấp hành. Sau đó H và Ltiếp tục xông vào phòng làm việc nên anh H lấy ổ khóa móc cửa lại, H tiếp tục xông vào thì anh H can ngăn, dùng tay đẩy H ra thì bị H dùng tay đánh vào vùng đầu, mặt của anh H. Tiếp đó H dùng cây chổi bông cỏ (dùng để quét nhà) dài 80cm, cán bằng nhựa quấn dây màu đỏ và vàng dài 60cm đánh vào vai anh H 03 cái [Bút lục số 109- 115].Thấy anh H bị đánh anh Trần Văn Ph đi đến can ngăn thì bị L xông vào dùng tay đánh vào gáy của anh Ph 01 cái, rồi dùng tay đánh, cào vào mặt anh Ph gây xước da rỉ máu ở mép miệng của anh Ph [Bút lục số 116-120]. Do bị anh Trần Văn T, Mông Văn D1 và một số người có mặt tại trụ sở Công an xã đến can ngăn nên H và L không đánh được anh H và anh Ph nữa [Bút lục số 110-114, 63-66, 71-76].
Sau khi sự việc xảy ra, Công an xã P T đã trình báo Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Đốp, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Điểu Thị H và Điểu Thị L về hành vi chống người thi hành công vụ, lập biên bản xem xét dấu vết thân thể đối với thương tích của anh Ph, đồng thời tạm giữ 01 cây chổi bông cỏ để phục vụ cho quá trình điều tra [Bút lục số 01-02].
Tại cáo trạng số: 07/CT-VKS ngày 20/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp đã truy tố các bị cáo Điểu Thị L và Điểu Thị H về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015 như đã viện dẫn.
Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện VKSND huyện Bù Đốp giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo mức án từ 6-9 tháng tù, cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách gấp đôi.
Tại phiên tòa các bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu với lý do Điều tra viên ghi không đúng lời khai của bị cáo. Người phiên dịch cũng trình bày có tham gia một lần hỏi cung đối với bị cáo H, thấy Điều tra viên ghi không đúng lời khai của bị cáo nhưng không giải thích được lý do vì sao biết ghi không đúng nhưng vẫn ký xác nhận vào biên bản hỏi cung; người làm chứng Điểu Thị Ng thay đổi lời khai, nại rằng các bị cáo không chửi, đánh ông Hải, ông Phước nhưng không trình bày được lý do tại sao trong các biên bản ghi lời khai tại Cơ quan CSĐT lại khai như cáo trạng đã truy tố.
Người bào chữa cho các bị cáo thống nhất với mức án Viện kiểm sát đề xuất, đề nghị HĐXX xử phạt các bị cáo mức án 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H, ông Trần Văn Ph không yêu cầu bồi thường thiệt hại do thương tích không đáng kể.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người làm chứng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Tuy tại phiên tòa các bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng lại không đưa ra được lý do vì sao bị lực lượng công an trấn áp, còng tay nếu không có hành vi chống người thi hành công vụ. Căn cứ hồ sơ vụ án, các lời khai của các bị cáo và những người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thống nhất với nhau về diễn biến sự việc nên có thể khẳng định: Vào khoảng 10 giờ ngày 21/10/2018, Điểu Thị L, Điểu Thị H đến trụ sở Công an xã P T lớn tiếng chửi bới, đòi xông vào phòng làm việc nơi ông Phước đang làm việc với Điểu D. H đã có hành vi dùng tay và chổi bông cỏ đánh vào vùng mặt và đầu và vai của ông Hải, L dùng tay đánh vào gáy và cào vào mặt ông Phước gây xước da, chảy máu ở mép miệng của ông Phước. Tại thời điểm đó, ông H và ông Ph là những người đang thi hành công vụ, đang làm việc với Điểu D là cháu của các bị cáo.
Tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào dùng vũ lực đe dọa hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”
Như vậy, hành vi gây rối, chửi bới và đánh Công an xã của các bị cáo đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”, cáo trạng số: 07/CT-VKS ngày 20/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp và luận tội của kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Điểu Thị L, Điểu Thị H là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ của hành vi: Hành vi dùng lời lẽ xúc phạm, chửi bới và tấn công lực lượng Công an xã của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến hoạt động công vụ của Công an xã P T khi đang thi hành nghiệp vụ. Chỉ vì lo lắng cho cháu mình là Điểu D khi làm việc với công an mà các bị cáo đã nôn nóng can thiệp dẫn đến có hành vi cản trợ người thi hành công vụ. Tuy tính chất vụ án không nghiêm trọng nhưng cần xử phạt các bị cáo mức án đủ nghiêm khắc để đảm bảo răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung tại địa phương.
Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó, các bị cáo trực tiếp là người thực hành. Tuy không có sự thống nhất, bàn bạc trước đó nhưng các bị cáo đã có sự trao đổi, tiếp nhận ý chí và cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội.
[4] Tình tiết tăng nặng: Không có
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp, hiểu biết pháp luật hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Xét thấy bị cáo H đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên mức án đối với bị cáo cần nhẹ hơn bị cáo L.
[6] Trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn H, ông Trần Văn Ph không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên HĐXX không xét.
[7] Về vật chứng: 01 chổi bông cỏ (dùng để quét nhà) dài 80cm, cán bằng nhựa quấn dây màu đỏ và vàng dài 60cm là phương tiện phạm tôi, xét thấy không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Điểu Thị L, Điểu Thị H phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm h, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65; Điều 17, 50, 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Điểu Thị L 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.
Xử phạt: Điểu Thị H 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao các bị cáo cho UBND xã Phước Thiện giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự
Tịch thu tiêu hủy 01 chổi bông cỏ (dùng để quét nhà) dài 80cm, cán bằng nhựa quấn dây màu đỏ và vàng dài 60cm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/12/2018 giữa Công an huyện Bù Đốp, và Chi cục THADS huyện Bù Đốp.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Điểu Thị L và Điểu Thị H mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 14/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 14/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về