Bản án 14/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1681/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn C, sinh năm: 1976 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: ấp T P, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Lớp 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn T và bà Trịnh Thị N; Họ tên vợ: Bùi Thị Mộng L, sinh năm: 1978; Bị cáo có 02 người con sinh năm 1999 và 2003; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 13 ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú; Lệnh số 29/LCCT-VKS ngày 02 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú và Quyết định số: 41/2019/HSST-QĐ, ngày 08 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Bách G, sinh năm: 2001; Nơi cư trú: ấp T H, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại anh Phạm Bách G:

1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1970.

2. Bà Phạm Thị Mỹ Th, sinh năm 1976.

Cùng nơi cư trú: Số nhà 355/3, ấp T H, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Bà Phạm Thị Mỹ Th đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn H theo văn bản ủy quyền đề ngày 26/11/2018.

Bà Phạm Thị Mỹ Th có mặt tại tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị Mộng L, sinh năm: 1978; Nơi cư trú: ấp T P, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Trần Vũ P, sinh năm: 1986; Nơi cư trú: ấp T H, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 01 tháng 11 năm 2018, sau khi đã uống rượu, bia, Huỳnh Văn C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 61H6-1763, lưu thông trên Quốc lộ 57 theo hướng từ Đồn biên phòng Cổ Chiên thuộc ấp T H, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre đi Ủy ban nhân dân xã T P. Khi đến km 101+600m, thuộc ấp T H, xã T P gần ngã ba đường qua Giồng Dài, do không làm chủ tốc độ nên xe C điều khiển đi về bên trái theo chiều xe chạy của mình và va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 61L8-6196, do Phạm Bách G, sinh ngày 26 tháng 3 năm 2001, ngụ ấp T H, xã T P, huyện P, tỉnh Bến Tre điều khiển lưu thông theo hướng ngược lại, làm cả hai xe mô tô và người đều ngã xuống đường. Hậu quả G và Chí bị thương và bất tỉnh được đưa đến Trung tâm y tế huyện P cấp cứu, nhưng do bị thương tích nặng nên Phạm Bách G chết tại Trung tâm y tế huyện P.

Qua quá trình điều tra đã xác định được như sau:

1. Về giấy phép lái xe: Bị cáo Huỳnh Văn C không có giấy phép lái xe theo quy định tại điểm a khoản 8 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP- BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIX của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông.

2. Về kết quả kiểm tra nồng độ cồn: Theo kết quả kiểm tra nồng độ cồn trong máu do Trung tâm y tế huyện P thực hiện khi Huỳnh Văn C và Phạm Bách G vào viện vào lúc 20 giờ 55 phút ngày 01 tháng 11 năm 2018 xác định là: Định lượng Ethanol (cồn) trong máu của Huỳnh Văn C là 146miligam/100mililit máu (theo quy định không được vượt quá 50miligam/100mililit). Định lượng Ethanol (cồn) trong máu của Phạm Bách G là 23miligam/100mililit máu. Như vậy nồng độ cồn trong máu bị cáo C vượt quá mức quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008: “Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”.

3. Về kết quả khám nghiệm hiện trường: Biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 19 giờ 35 phút ngày 01 tháng 11 năm 2018 ghi nhận như sau:

Hiện trường xảy ra tai nạn là một đoạn đường thẳng, mặt đường được rải nhựa rộng 4,9m, mặt đường bằng phẳng và không có vạch kẻ sơn để phân chia làn đường thành hai chiều xe chạy riêng biệt. Đoạn đường không nằm trong khu vực biển báo hiệu đường bộ. Chọn mép đường phía bên phải theo hướng từ Ủy ban nhân dân xã T P đi hướng Đồn biên phòng Cổ Chiên làm lề chuẩn để tiến hành đo vẽ và lấy trụ điện số 382 nằm phía bên lề trái làm mốc cố định để đến vị trí các phương tiện và dấu vết. Hiện trường thể hiện:

- Vị trí xe mô tô 61H6-1763 ký hiệu là số 01 nằm ngã nghiêng bên trái, đầu hướng vào lề trái và theo hướng đi Ủy ban nhân dân xã T P, đuôi hướng về lề chuẩn và theo hướng đi Đồn biên phòng Cổ Chiên. Trục trước cách lề chuẩn là 0,5m, trục sau xe trùng với lề chuẩn. Trục trước xe đến điểm mốc là 13m, cách tâm vị trí số 02 là 1,3m. Trục sau xe cách tâm vị trí số 02 là 1,5m.

- Vị trí vùng mảnh vỡ ký hiệu là số 02 gồm một số phần của vỏ nhựa xe, gác chân sau bên trái của xe màu đen; 01 biển số xe có ký hiệu 61L8-6196. Tâm vùng mảnh vỡ cách đầu vị trí số 03 là 0,55m. Có kích thước: dài 03m x rộng 02m, chiều dài đo theo hướng Ủy ban nhân dân xã T P đi Đồn biên phòng Cổ Chiên. Tâm vùng mảnh vỡ cách lề chuẩn 1,4m.

- Vị trí vết cày ký hiệu là số 03 hướng vào lề chuẩn. Đầu vết cày cách lề chuẩn là 1,3m. Đuôi vết cày cách lề chuẩn là 1,25m. Có kích thước: dài 0,1m x rộng 0,02m. Chiều hướng từ Ủy ban nhân dân T P đi Đồn biên phòng Cổ Chiên. Đầu vết cày đến trục trước vị trí số 04 là 1,05m.

- Vị trí xe mô tô 61L8-6196 ký hiệu là số 04 nằm ngã nghiêng bên trái, đầu hướng vào lề chuẩn và hướng về Đồn biên phòng Cổ Chiên, đuôi hướng về lề trái và hướng về Ủy ban nhân dân xã T P. Trục trước xe cách lề chuẩn là 2,15m. Trục sau xe cách lề chuẩn là 2,55m. Trục sau xe cách tâm vị trí số 5 là 1,7m.

- Vị trí vết máu của nạn nhân ký hiệu là số 05 có dạng vết máu loang, nằm song song với vị trí số 04. Tâm vết máu nằm cách lề chuẩn là 04m, có kích thước là dài 02m x rộng 1,35m. Chiều dài đo theo hướng Ủy ban nhân dân T P đi Đồn biên phòng Cổ Chiên.

4. Về kết quả khám nghiệm tử thi: Biên bản khám nghiệm tử thi lúc 22 giờ 40 phút ngày 01 tháng 11 năm 2018 ghi nhận các dấu vết, tổn thương điển hình trên cơ thể của Phạm Bách G như sau:

- Đầu: Tóc cắt ngắn, màu nâu – đen. Vùng đỉnh chẩm thái dương trái bị phù nề, trên vùng phù nề có nhiều vết sây sát da, bầm tụ máu, kích thước 15cm x 12cm, cách đỉnh vành tai trái 06cm, cách đường giữa 07cm. Hai mắt bị phù nề. Mũi, miệng có máu chảy ra. Hai tai khô. Môi trên, môi dưới bị giập, bầm tụ máu. Má phải, cầm, góc hàm phải có nhiều vết sây sát da, bầm tụ máu. Vỡ xương hàm dưới.

- Mổ vùng đầu nhận thấy: Xuất huyết tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh chẩm thái dương trái. Tụ máu trong cơ thái dương hai bên. Mặt ngoài xương hộp sọ không thấy tổn thương. Màng cứng sung huyết. Dưới màng cứng hai bán cầu đại não có máu đông. Xuất huyết lan tỏa dưới màng mềm hai bán cầu đại não. Xuất huyết tụ máu quanh cầu não. Tiểu não bị sung, xuất huyết. Trong nhu mô não có máu đông. Nhu mô não thùy thái dương phải bị giập. Nền sọ không tổn thương.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 190/TT ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre, kết luận Phạm Bách G chết do chấn thương sọ não gây xuất huyết, tụ máu nội sọ và giập não.

5. Về vật chứng của vụ án được tạm giữ gồm:

- 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu BONNY, màu đen - xám, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 005015, số khung 05015, biển số đăng ký 61L8-6196 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy nêu trên số 063780.

- 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu FULJIR, màu xanh, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 10438172, số khung 30020581, biển số đăng ký 61H6-1763 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy nêu trên số 0033803.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKS, ngày 24 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú đã truy tố Huỳnh Văn C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Văn C từ 01 năm đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật Dân sự. Ghi nhận bị cáo Huỳnh Văn C đã bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 33.000.000 đồng. Tại tòa, đại diện hợp pháp của bị hại có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền tổn thất về tinh thần 50.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường thêm số tiền 50.000.000 đồng này, nên buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường thêm cho người đại diện hợp pháp của bị hại số tiền tổn thất về tinh thần 50.000.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị Mộng L không có yêu cầu gì khác, nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú đã trao trả 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu FULJIR, màu xanh, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 10438172, số khung 30020581, biển số đăng ký 61H6-1763 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 0033803 cho bị cáo Huỳnh Văn C và 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu BONNY, màu đen - xám, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 005015, số khung 05015, biển số đăng ký 61L8-6196 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 063780 bà Phạm Thị Mỹ Th là đại diện hợp pháp của bị hại theo Quyết định xử lý vật chứng số 05 ngày 25 tháng 4 năm 2019.

Trong quá trình điều tra người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phạm Thị Mỹ Th có đơn yêu cầu bãi nại, xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo và tại phiên tòa có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền tổn thất về tinh thần là 50.000.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng đã truy tố, thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật; tại phần nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạnh Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Vào ngày 01 tháng 11 năm 2018 bị cáo Huỳnh Văn C là người không có giấy phép lái xe theo quy định mà còn sử dụng rượu, bia khi trong máu có nồng độ cồn là 146miligam/100mililit máu đã vượt mức quy định, cùng với ý thức chủ quan, thiếu chú ý quan sát, đi không đúng phần đường quy định khi điều khiển xe mô tô biển số đăng ký 61H6-1763 đã va chạm vào người của bị hại Phạm Bách G dẫn đến bị hại tử vong do chấn thương sọ não.

Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

......

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

……

Như vậy hành vi của Huỳnh Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo Huỳnh Văn C thực hiện là rất nghiêm trọng; hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông công cộng dẫn đến thiệt hại về tính mạng của người khác và gây nên cảnh mất mát đau thương vô hạn cho gia đình bị hại. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây ra.

Trong vụ án bị cáo có lỗi thiếu chú ý quan sát, do không làm chủ tay lái, điều khiển xe đi không đúng phần đường quy định khi tham gia giao thông. Bị hại cũng có một phần lỗi là chưa đủ tuổi điều khiển phương tiện giao thông, mặc dù nồng độ cồn trong máu không vượt quá quy định nhưng bị hại vẫn có sử dụng rượu, bia và không có đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông theo quy định. Tuy nhiên xét tình hình các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có chiều hướng gia tăng với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng vì vậy cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo được tính răn đe, phòng ngừa chung cho cộng đồng, đồng thời để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải; trước đó bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền 33.000.000 đồng để bồi thường khắc phục hậu quả và tại phiên tòa đồng ý bồi thường thêm cho người đại diện hợp pháp bị hại số tiền tổn thất về tinh thần 50.000.000 đồng; Bị cáo có bà nội được Chủ tịch nước tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; bị hại cũng có một phần lỗi; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu bãi nại xin miễn trách nhiệm hình sự và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Qua đánh giá toàn diện về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy rằng do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên có đủ căn cứ để quyết định cho bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt của khoản 2 Điều 260 theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo đã bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 33.000.000 đồng. Buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường tiếp cho người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phạm Thị Mỹ Th và ông Nguyễn Văn H số tiền tổn thất về tinh thần 50.000.000 đồng.

[8] Về xử lý vật chứng: Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú đã trao trả cho bị cáo Huỳnh Văn C 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu FULJIR, màu xanh, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 10438172, số khung 30020581, biển số đăng ký 61H6-1763 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 0033803 và trả cho bà Phạm Thị Mỹ Th là đại diện hợp pháp của bị hại 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu BONNY, màu đen - xám, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 005015, số khung 05015, biển số đăng ký 61L8-6196 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 063780 theo Quyết định xử lý vật chứng số 05 ngày 25 tháng 4 năm 2019 là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn C 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 357, 584, 585, 586 và 591 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ghi nhận việc bị cáo Huỳnh Văn C đã bồi thường trước cho người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phạm Thị Mỹ Th và ông Nguyễn Văn H số tiền 33.000.000 đồng (Ba mươi ba triệu đồng).

Buộc bị cáo Huỳnh Văn C có nghĩa vụ bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phạm Thị Mỹ Th và ông Nguyễn Văn H số tiền tổn thất về tinh thần 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người đại diện hợp pháp của bị hại, nếu bị cáo chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 cho đến khi thi hành xong.

4. Xử lý vật chứng: Ghi nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú đã trao trả cho bị cáo Huỳnh Văn C 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu FULJIR, màu xanh, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 10438172, số khung 30020581, biển số đăng ký 61H6-1763 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 0033803 và trả cho bà Phạm Thị Mỹ Th là người đại diện hợp pháp của bị hại 01 xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu BONNY, màu đen - xám, dung tích xi lanh 108cm3, số máy 005015, số khung 05015, biển số đăng ký 61L8-6196 và 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 063780 theo Quyết định xử lý vật chứng số 05 ngày 25 tháng 4 năm 2019.

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Văn C phải chịu 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;