Bản án 14/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 392/2018/TLST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thiện T, sinh năm 1983 tại tỉnh Thanh Hóa; Thường trú: Thôn 4, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; con ông Lê Thiện K (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); vợ tên Lê Thị L, sinh năm 1983 (đã ly hôn) và 02 người con lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2007; có 03 chị ruột, lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất sinh năm 1981; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 14/12/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng. Chấp hành xong Quyết định vào ngày 22/12/2017; bị bắt tạm giam ngày 14/9/2018, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị L, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 10B, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Minh S, sinh năm 1973; địa chỉ: Tổ 10B khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Thiện T bắt đầu sử dụng ma túy đá tên khoa học là Methamphetamine từ đầu tháng 8 năm 2018.

Vào lúc 16 giờ ngày 14/9/2018, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Thiện T sử dụng điện thoại Mobell màu đỏ đen, sim số 01634283824 điện thoại cho người đàn ông tên V (không rõ lai lịch) để mua 300.000 đồng ma túy. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, V đi đến gặp T tại cửa sau tiệm tạp hóa Như Ý địa chỉ tổ 10 B khu phố Tân Hiệp, phường Tân Bình, thị xã Dĩ An, giao cho T một gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, T trả cho V 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T mang vào phòng ngủ trong tiệm tạp hóa Như Ý rồi bỏ gói nilon lên bàn và lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy ra định sử dụng thì có đội cảnh sát ma túy Công an thị xã Dĩ An phối hợp với Công an phường Tân Bình đi kiểm tra hành chính tiệm tạp hóa Như Ý phát hiện nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đỏ đen, sim số 01634283824. Tại bản Kết luận giám định số: 564/MT-PC09 ngày 18/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận tinh thể màu trắng trong một gói nylon hàn kín gửi giám định thu giữ của Lê Thiện T là ma túy, có khối lượng: 0,1688 gam, loại chất Methamphetamine.

Đối với người tên V đã bán ma túy cho bị cáo Lê Thiện T do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với chị Lê Thị L–sinh năm: 1983, HKTT: đội 5, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa là chủ tiệm tạp hóa Như Ý, sống chung với Lê Thiện T và không biết việc T tàng trữ trái phép chất ma túy nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An không đề nghị xử lý.

Tại cáo trạng số 04/CT–VKS–DA ngày 11 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Thiện T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Thiện T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định đã được niêm phong là: 0,0645g, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, sim điện thoại số 01634283824 và tịch thu sung quỹ nhà nước điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đỏ đen.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lê Thiện T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại ma túy đá T dùng là chất Methamphetamine. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 14/9/2018, tại địa chỉ khu phố Tân Hiệp, phường Tân Bình, thị xã Dĩ An sau khi mua được ma túy, T mang vào phòng ngủ trong tiệm tạp hóa Như Ý rồi bỏ gói nilon lên bàn, T lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy ra định sử dụng thì có đội cảnh sát ma túy Công an thị xã Dĩ An phối hợp với Công an phường Tân Bình, kiểm tra hành chính tiệm tạp hóa Như Ý phát hiện, nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Theo kết luận giám định số: 564/MT-PC09 ngày 18/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận tinh thể màu trắng trong một gói nylon hàn kín gửi giám định thu giữ của Lê Thiện T là ma túy, có khối lượng: 0,1688 gam, loại chất Methamphetamine.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ”.......

c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; “.......

Hành vi của bị cáo Lê Thiện T tàng trữ 01 gói ma túy, có chất Methamphetamine, trọng lượng 0,1688 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 04/CT–VKS-DA ngày 11 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động nghiện ma túy; Ngày 14/12/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng. Chấp hành xong Quyết định vào ngày 22/12/2017.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư niêm phong số 564/PC09 bên trong chứa Methamphetamine trọng lượng 0,0645 gam là mẫu vật sau giám định là vật cấm lưu thông; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy và sim điện thoại số 01634283824 cần tịch thu tiêu hủy.

Xét 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đỏ đen là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với người tên V đã bán ma túy cho bị cáo Lê Thiện T do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với chị Lê Thị L– sinh năm: 1983, HKTT: đội 5, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa là chủ tiệm tạp hóa Như Ý, sống chung với Lê Thiện T và không biết việc T tàng trữ trái phép chất ma túy nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An không đề nghị xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thiện T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Thiện T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong số 564/PC09 bên trong chứa Methamphetamine trọng lượng 0,0645 gam là mẫu vật sau giám định là vật cấm lưu thông; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy và sim điện thoại số 01634283824; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đỏ đen. (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/12/2018, bút lục 74).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hộiquy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thiện T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;