TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:
- Cao Minh T (tên thường gọi: B), sinh 12 tháng 3 năm 2000, nơi sinh: tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Cao Văn T, sinh năm: 1975 (còn sống), họ và tên mẹ: Lăng Thị Bảo T, sinh năm: 1979 (còn sống); gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, tiền sự: 01 tiền sự về hành vi về sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 22/QĐ-UBND ngày 21/3/2018 của UBND xã B, huyện C. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 24/2018/QĐ-TA ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai, địa chỉ: Ấp Bình Tân, xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai (có mặt).
- Nguyễn Hoàng Q (tên thường gọi: B1), sinh ngày 06 tháng 5 năm 2001, nơi sinh: tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 77, ấp D, xã Đ, huyện E, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Số nhà 77, ấp D, xã Đ, huyện E, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1974 (còn sống), họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Kim T, sinh năm: 1976 (còn sống); gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang chấp hành án 3 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 201/2018/HS-ST ngày 21/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại Trại giam Long Hòa (Bộ Công an), tỉnh Long An (có mặt).
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1974, bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm: 1976 (ông Hải xin vắng mặt, bà Thanh có mặt).
Cùng nơi cư trú: Số nhà 77, ấp D, xã Đ, huyện E, tỉnh Đồng Nai.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Ông Nguyễn Minh – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh khu vực huyện Trảng Bom, Vĩnh Cửu (có mặt).
- Bị hại: Ông Cao Văn T, sinh năm: 1975 (vắng mặt).
Nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Tuyết N, sinh năm: 1984 (có mặt).
Nơi cư trú: Số nhà 5/3, Quốc lộ 1, khu phố G, phường H, thành phố I, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giời 30 phút ngày 06/7/2018, ông Cao Văn T điều khiển xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05 đi làm từ Công ty ChangShin Việt Nam về nhà tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Khi về đến nhà, ông T chạy xe mô tô vào nhà, khóa cổ xe, khóa thắng đĩa bánh trước rồi cất chìa khóa vào áo gối trên giường trong phòng ngủ và đi sang nhà hàng xóm chơi. Lúc này, con trai của ông T là Cao Minh T đang nằm ngủ trong nhà. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T biết ông T dấu chìa khóa trong áo gối nên đã vào phòng ngủ lấy chìa khóa xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05 của ông T rồi mở cốp xe lấy ví tiền trong đó có số tiền 1.200.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05, tất cả đều mang tên Cao Văn T. Sau đó, T điều khiển xe mô tô này đi chơi cùng bạn và thuê phòng trọ tại phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để ở.
Đến ngày 08/7/2018 sau khi tiêu xài hết số tiền 1.200.000 đồng, T gặp và đưa cho Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1999, cư trú tại ấp D, xã Đ, huyện E, tỉnh Đồng Nai giấy chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05 mang tên Cao Văn T cho Tuấn A để nhờ Tuấn A đi cầm cố thì Tuấn A đồng ý, không hỏi gì thêm. Tuy nhiên, khi nhờ Tuấn A đi cầm giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô thì T không cho Tuấn A biết số giấy tờ này do T lấy trộm của ông T. Sau đó, T chở Tuấn A đến Tiệm cầm đồ “M” thuộc khu phố M, phường T, thành phố I, tỉnh Đồng Nai, T đứng ngoài đợi còn Tuấn A đi vào Tiệm cầm đồ “M” gặp chồng của bà Phạm Thị Tuyết N đưa giấy chứng minh nhân dân và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05 để cầm cố, chồng của bà N đồng ý cầm cho Tuấn A với số tiền là 1.000.000 đồng rồi viết biên lai cầm đồ đưa cho Tuấn A. Sau đó, Tuấn A đi ra đưa biên lai cầm đồ và tiền cho T rồi cả hai đi về.
Đến ngày 09/7/2018, T gặp bạn là Nguyễn Hoàng Q, T đưa cho Q giấy biên lai cầm đồ hôm trước và xe môtô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05 để nhờ Q đi cầm thì Q đồng ý. Trước khi đưa xe mô tô nói trên cho Q đi cầm, T có nói với Q xe mô tô trên do T lấy trộm của bố ruột mình nhưng do là bạn bè, nể nang nhau nên Q đã đồng ý đi cầm xe giúp T. Sau đó T và Q đi đến Tiệm cầm đồ “M”, T ở ngoài đợi còn Q đi vào gặp bà N cầm xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05. Q đưa ra biên lai cầm đồ và nói với bà N là xe của Q đã cầm cố giấy chứng minh nhân dân, chứng nhận đăng ký xe lần trước. Bà N tin tưởng không kiểm tra thông tin nên đã cầm cố chiếc xe với số tiền là 9.000.000 đồng, Q đưa số tiền cầm xe cho T.
Số tiền có được do phạm tội trộm cắp mà có, T đã sử dụng số tiền 7.500.000 đồng mua 01 chiếc xe hiệu Sirius (không rõ nguồn gốc, biển số) để sử dụng, sau đó T đã làm mất chiếc xe này. Số tiền còn lại T sử dụng tiêu xài cá nhân hết.
* Tang vật thu giữ:
- 01 xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1-251.05;
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1-251.05 mang tên Cao Văn T;
- Giấy chứng minh nhân dân mang tên Cao Văn T.
Chiếc xe xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05 là tài sản riêng của ông Cao Văn T, ông T đã mua chiếc xe này vào cuối năm 2017 với giá 26.000.000 đồng tại thành phố I. Ông T đã làm thủ tục đứng tên là người chủ sở hữu ngày 06/7/2018 nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Cao Văn T.
* Kết luận định giá tài sản số: 83/KL-ĐGTS ngày 01/8/2018 của Hội đồng định giá huyện Vĩnh Cửu xác định tài sản thiệt hại 01 chiếc xe loại Airblade, biển số 60F1-251.05 giá trị còn lại là 19.000.000 đồng.
* Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
- Bị hại ông Cao Văn T đã nhận lại được giấy chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1-251.05, không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự.
- Bà Phạm Thị Tuyết N yêu cầu những người đến cầm cố xe và giấy tờ liên quan chiếc xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1-251.05 phải bồi thường tổng số tiền là 10.000.000 đồng.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Cao Minh T, Nguyễn Hoàng Q đã thừa nhận: Ngày 06/7/2018, tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai, Cao Minh T đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1-251.05, giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, giấy chứng nhận đăng ký xe và số tiền 1.200.000 đồng của ông Cao Văn T là bố ruột của T. T nhờ bạn là Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Hoàng Q đi cầm cố giấy chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận đăng ký xe và chiếc xe cho Tiệm cầm đồ “M” do bà Phạm Thị Tuyết N làm chủ được 10.000.000 đồng tiêu xài. Khi T nhờ Tuấn A đi cầm giấy chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô thì T không cho Tuấn A biết số giấy tờ này do T lấy trộm của bố mình. Khi T nhờ Q đi cầm cố chiếc xe mô tô trên, T có nói với Q là T lấy trộm của bố ruột mình, nhưng do nể nang bạn bè quen biết nhau nên Q đã đồng ý đi cầm xe giúp T. Tổng giá trị tài sản Cao Minh T trộm cắp là: 20.200.000 đồng. Cơ quan điều tra đã thu giữ toàn bộ giấy tờ và chiếc xe mô tô đã trả lại cho chủ sở hữu.
Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Cao Minh T về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Nguyễn Hoàng Q về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo:
- Cao Minh T từ 9 đến 12 tháng tù;
- Nguyễn Hoàng Q từ 9 đến 12 tháng tù;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015, Điều 589 của Bộ luật dân sự. Đề nghị buộc bị cáo T phải bồi thường cho bà Phạm Thị Tuyết N số tiền 10.000.000 đồng.
* Bị cáo tự bào chữa và ý kiến của người bào chữa cho bị cáo:
- Bị cáo Cao Minh T: Bị cáo thống nhất bản luận tội, không có ý kiến gì thêm.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Về tội danh, thống nhất bản cáo trạng và bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo Q có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: T khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khi phạm tội là người chưa thành niên; phạm tội chỉ vì nể nang bạn bè, không sử dụng tiền do phạm tội mà có nên đề nghị xử phạt bị cáo từ 6 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Thống nhất ý kiến bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến gì thêm.
- Ý kiến của bà Nguyễn Thị Kim T: Xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q.
* Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Phạm Thị Tuyết N: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Cao Minh T phải bồi thường cho bà số tiền 10.000.000 đồng đã chiếm đoạt do toàn bộ số tiền này bị cáo T sử dụng, bị cáo Q không sử dụng. Đồng thời xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Hoàng Q.
* Bị cáo nói lời sau cùng:
- Bị cáo Cao Minh T: Xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo, người bào chữa, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, các bị cáo Cao Minh T và Nguyễn Hoàng Q đã khai và thừa nhận:
Ngày 06/7/2018, tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai, lợi dụng ông T đi vắng, T đã lén lút lấy 01 chiếc xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1251.05, trong cốp xe có 01 ví có số tiền 1.200.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1- 251.05, tất cả đều mang tên Cao Văn T đi chơi và đã sử dụng ma túy, tiêu xài hết số tiền 1.200.000 đồng.
Ngày 08/7/2018, T nhờ bạn là Nguyễn Tuấn A cầm cố giấy chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận đăng ký xe trên cho Tiệm cầm đồ “M” được số tiền 1.000.000 đồng. Khi T nhờ Tuấn A cầm cố thì T không nói cho Tuấn A biết số giấy tờ này do T lấy trộm của bố mình. T tiếp tục sử dụng số tiền này để mua ma túy đá, tiêu xài cá nhân hết.
Đến ngày 09/7/2018, T tiếp tục nhờ bạn là Nguyễn Hoàng Q cầm cố chiếc xe Airblade, biển số 60F1251.05 cũng cho Tiệm cầm đồ “M” được số tiền 9.000.000 đồng. Khi T nhờ Q đi cầm cố chiếc xe mô tô trên, T có nói với Q biết là T lấy trộm xe của bố ruột mình. Do nể nang bạn bè quen biết nhau nên Q đồng ý cầm cố xe giúp T. Số tiền 9.000.000 đồng có được, T đã sử dụng số tiền 7.500.000 đồng mua 01 chiếc xe hiệu Sirius (không rõ nguồn gốc, biển số) để sử dụng, sau đó T đã làm mất chiếc xe này. Số tiền còn lại T sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Kết luận định giá tài sản số: 83/KL - ĐGTS ngày 01/8/2018 của Hội đồng định giá huyện Vĩnh Cửu xác định tài sản thiệt hại 01 chiếc xe loại Airblade, biển số 60F1-251.05 có giá trị còn lại là 19.000.000 đồng. Như vậy, tổng giá trị tài sản bị cáo Cao Minh T chiếm đoạt của ông T là: 20.200.000 đồng.
Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo khác, bị hại ông Cao Văn T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Phạm Thị Tuyết N, Kết luật định giá tài sản và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, bị cáo Cao Minh T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), bị cáo Nguyễn Hoàng Q đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai truy tố.
Hành vi phạm tội của các bị cáo Cao Minh T, Nguyễn Hoàng Q tuy là ít nghiêm trọng nhưng nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ; gây bất bình cho gia đình và quần chúng nhân dân. Các bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết được hoặc phải biết việc trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật nhưng vì để có tiền sử dụng ma túy, tiêu xài cá nhân (bị cáo T), nể nang bạn bè (bị cáo Q) nên vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét:
- Về nhân thân của các bị cáo:
+ Bị cáo Cao Minh T: Tại thời điểm phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu thể hiện có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (theo Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 22/QĐ-UBND ngày 21/3/2018 của UBND xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu đối với Cao Minh Thành về sử dụng trái phép chất ma túy).
+ Bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Có nhân thân tốt thể hiện việc tại thời điểm phạm tội, chưa có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Bị cáo Cao Minh T: Trong quá trình tố tụng, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
+ Bị cáo Nguyễn Hoàng Q: Trong quá trình tố tụng, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khi phạm tội là người chưa thành niên, thực hiện hành vi phạm tội chỉ vì nể nang bạn bè, không được hưởng lợi từ số tiền bị cáo T chiếm đoạt, tại phiên tòa bà Phạm Thị Tuyết N xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và các quy định tại Chương II những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Từ đó Hội đồng xét xử căn cứ quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
- Bị hại ông Cao Văn T đã nhận lại 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy chứng nhận đăng ký và xe mô tô hiệu AirBlade, biển số 60F1-251.05, không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét.
- Bà Phạm Thị Tuyết N yêu cầu bị cáo Cao Minh T (không yêu cầu bị cáo Nguyễn Hoàng Q) phải bồi thường số tiền 10.000.000 đồng đã chiếm đoạt. Tại phiên tòa, bị cáo T đồng ý bồi thường cho bà N số tiền này nên ghi nhận.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Cao Minh T phải bồi thường cho bà Phạm Thị Tuyết N số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng.
[4]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 22, điểm a, f khoản 1 Điều 23, Điều 47 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và tiểu mục 1 mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo Cao Minh T và Nguyễn Hoàng Q phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Cao Minh T phải chịu 500.000 (năm trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[5]. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6]. Xét quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Q một phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Đối với bà Phạm Thị Tuyết N cầm cố giấy chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận đăng ký xe và chiếc xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60F1-251.05 nhưng không biết tài sản đó là do T trộm cắp mà có. Theo VKSND huyện Vĩnh Cửu hành vi của bà Phạm Thị Tuyết N không có dấu hiệu của tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự nên không truy tố. Do đó Tòa án không xem xét.
[8]. Đối tượng Nguyễn Tuấn A hiện nay không có mặt tại địa phương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu chưa làm việc được. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu tiếp tục xác minh xử lý theo quy định pháp luật. Do đó Tòa án không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 45, 46, 250, 254, 255, 259, 260, 262, khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269, các Điều 298, 299, 326, 327, 329, 331, 333, 336, 337, 339 và Điều 509 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 1, Điều 4, khoản 1 Điều 5 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.
[1]. Tuyên bố:
- Bị cáo Cao Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bị cáo Nguyễn Hoàng Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
[2]. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
* Đối với bị cáo Cao Minh T:
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38, 50, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 1 Điều 1, Điều 4 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.
- Xử phạt bị cáo Cao Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án. Bắt tạm giam bị cáo Cao Minh T ngay khi tuyên án;
* Đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Q:
- Căn cứ khoản 1 Điều 323, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38, 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 90, 91, khoản 4 Điều 98, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 1 Điều 1, Điều 4 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Q 03 (ba) tháng tù.
[3]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 468, 589 của Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo Cao Minh T phải bồi thường cho bà Phạm Thị Tuyết N số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hánh án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
[4]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 22, điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 47 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và tiểu mục 1 mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo Cao Minh T và Nguyễn Hoàng Q phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Cao Minh T phải chịu 500.000 (năm trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Cao Minh T, Nguyễn Hoàng Q, người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Hoàng Q là bà Nguyễn Thị Kim T, người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Q được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Hoàng Q là ông Nguyễn Ngọc H được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết.
Bản án 14/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 14/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về