Bản án 14/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 13/2019/HSST ngày 10/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 23/4/2019 đối với bị cáo: Bùi Xuân Th(tên gọi khác: không), sinh ngày 28 tháng 4 năm 1966 tại huyện M, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú:  Đội 4, thôn A, xã H, huyện M, thành phố

Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Văn Ph và bà Đặng Thị Ả( cả hai đều đã chết); Bị cáo có vợ là Trần Thị V, sinh năm 1970 và có 03 con;Tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Năm 2009 bị xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số: 44/2009/HSST ngày 31/8/2009, đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/01/2014.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 05/12/2018, chuyển tạm giam ngày 14/12/2018. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị V, sinh năm 1970; nơi cư trú:  Đội 4, thôn A, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 05/12/2018, Công an huyện Mai Châu phối hợp với tổ công tác Công an tỉnh Hòa Bình làm nhiệm vụ tại Km 150+ 200 Quốc lộ 6, thuộc địa phận xóm Xà Lĩnh, xã Pà Cò, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Phát hiện Bùi Xuân Th điều khiển xe mô tô BKS 30H5- 1710 đi về hướng Hà Nội có nhiều nghi vấn. Tổ công tác yêu cầu Bùi Xuân Th dừng xe để kiểm tra hành chính và phát hiệntrong túi quần bên trái của  Th có 01 gói ni lon bên ngoài có quấn băng dính màu đen bên trong có 01 gói có chứa 01 cục chất bột màu trắng, 01 gói có chứa 18 viên nén hình trụ màu hồng. Bùi Xuân Th khai nhận đây là ma túy của  Th. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật đối với Bùi Xuân Th để điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra Bùi Xuân Th khai nhận do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 7 giờ ngày 05/12/2018  Th đã lấy xe mô tô biển kiểm soát 30H - 1710  của vợ đi từ Mỹ Đức lên Sơn La để tìm mua ma túy. Đến khoảng 14 giờ Bùi Xuân Th đến đia phận xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La,  Th gặp một người đàn ông dân tộc Mông mà trước đây  Th đã một lần mua ma túy.  Th hỏi mua và đưa cho người đàn ông đó 9,7 triệu đồng để mua ma túy. Người đàn ông cầm tiền và bảo  Th đi bộ vào đường mòn gần vách núi chờ , một lúc sau có người thanh niên khoảng 20 tuổi đến chỉ cho  Th chỗ để gói ma túy,  Th cầm gói đó cho vào túi quần bên trái đang mặc sau đó điều khiển xe mô tô để về nhà. Trên đường đi đến khu vực xóm Xà Lĩnh, xã pà Cò, huyện Mai Châu thì bị Tổ công tác bắt giữ cùng tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 274/KLGĐ-CAT- PC09 ngày 01/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi tên Bùi Xuân Th có khối lượng là 33,78 gam, là ma túy loại Heroine; 18 viên nén hình trụ màu hồng trong phong bì niêm phong ghitên Bùi Xuân Th có khối lượng là 1,73 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 14/CT- VKS - HS ngày 10/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai đã truy tố Bùi Xuân Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quyđịnh tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Bùi Xuân Th từ 12 đến 13 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị như sau.

- Tịch thu toàn bộ số ma túy của bị cáo để tiêu hủy sau khi án có hiệu lực pháp luật.

- Trả lại xe mô tô BKS 30H5- 1710 cho chị Trần Thị V vì chị không biết  bị cáo lấy xe của chị đi mua ma túy.

- Trả lại chiếc điện thoại di động cho Bùi Xuân Th vì bị cáo không dùng để liên lạc mua ma túy.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Bùi Xuân  Th, quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được họ tên, không biết địa chỉ ở đâu nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

Đề nghị áp dụng điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

Bị cáo Bùi Xuân Th nhất trí với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Châu, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa Bùi Xuân Th khai nhận về hành vi phạm tội như sau: Ngày 05/12/2018 Bùi Xuân Th đã đưa 9.700.000 đồng cho đàn ông không quen biết để mua ma túy gồm 33,78 gam Heroine và 1,73 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản  niêm phong đồ vật, thu giữ tài liệu; Kết luận giám định; biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận: Bùi Xuân Th phạm tội Tàng trữ trái phép 02 chất ma tuý có tổng khối lượng là 35,51 gam tương đương với quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại điểm b và h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán,vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm ....

3. Phạm tội thuộc một trong các điều sau đây thì bị phạt từ 10 năm đến 15 năm:…

h) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này;

b) Heroin, Cocain, Methamphetamine,, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam.”

Như vậy bản cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểmcho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quảnlý các chất ma tuý, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo đã cố tình phạm tội.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Bị cáo có nhân thân xấu thể hiện: Năm 2009 bị xử phạt 07 năm tù về tội về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số: 44/2009/HSST ngày 31/8/2009, đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/01/2014.

Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, thể hiện gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án Hội đồng xét xử nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát cần được xử lý như sau:

- Đối với toàn bộ số ma túy của bị cáo hoàn trả sau giám định cần phải tịch thu để tiêu huỷ.

- Trả lại xe mô tô BKS 30H5- 1710 cho chị Trần Thị V vì  Th tự ý lấy xe đi, chị Vĩnh không biết.

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung, bị cáo không dùng vào việc mua ma túy nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với người đàn ông bị cáo khai đã mua ma túy, quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được danh tính, địa chỉ nên Hội đồng không tiếp tục xem xét.

[6]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2.Về mức hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Xuân Th 12( Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/12/2018.

3.Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tuyên tịch thu để tiêu hủy sau khi án có hiệu lực pháp luật:  01( một) phong bì niêm phong, mặt trước có ghi Công an tỉnh Hòa Bình- Phòng kỹ thuật hình sự. Mẫu giám định ma túy, mẫu trả lại CQTC; CBGĐ: Đỗ Thành Công ngày niêm phong: 15/3/2019, số nhận giám định: 274 ngày 06/12/2018, số thông báo KLGĐ:274 ngày 11/12/2018. Cơ quan trưng cầu: Cơ quan CSĐT huyện Mai Châu số: 02 ngày 06/12/2018.Tên đối tượng Bùi Xuân  Th.Tên mẫu Hêroine: số lượng 01(22,12 gam). Methamphetamine số lượng 01(1,06 gam). Mặt sau phong bì có chữ ký của cán bộ niêm phong được đóng dấu giáp lai bằng 05( năm) dấu tròn, dấu của phòng kỹ thuật Công an tỉnh Hòa Bình.

- Trả lại cho chị Trần Thị V, sinh năm 1970; nơi cư trú:  Đội 4, thôn A, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội. 01 xe mô tô BKS 30H5- 1710 nhãn hiệu HONDA màu sơn đỏ -Đen- bạc có số máy: HC12E - 0650755, số khung RLHHC 12209Y 509664( kèm theo 01 chìa khóa xe) xe không có gương chiếu hậu bên phải, xe đãqua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy móc bên trong. 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số: 297158, mang tên Trần Văn Chương; địa chỉ: Tổ 41- Yên Hòa- Cầu Giấy- Hà Nội. Do phòng cảnh sát giao thông công an thành phố Hà Nội cấp ngày 13/01/2009.

- Trả lại bị cáo Bùi Xuân Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG màu vàng, có ốp nhựa màu xám, tại thời điểm giao nhận kiểm tra chiếc điện thoại có số IMEI 1: 355213/09/609489/1, số IMEI2: 355214/09/609489/9, điện thoại cũ đã qua sử dụng. Không kiểm tra chất lượng máy móc bên trong.

Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyệnMai Châu theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 21/THA ngày 11/4/2019.

3.Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Xuân Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;