Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 03 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 1152/2018/TLST-HNGĐ ngày 24/12/2018 về việc: tranh chấp ly hôn; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 03 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh P.L.T, sinh năm 1991; ĐKHKTT và nơi ở: Số 510 đường TC, phường NTS, quận ĐĐ, TP HN;

Người bảo vệ quyền và lợi ích của anh T: Luật sư: Vũ Ngọc C - Công ty luật TNHH TA thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Chị Đ.T.T, sinh năm 1993; ĐKHKTT: Số 510 đường TC, phường NTS, quận ĐĐ, TP HN; Hiện nay đang ở tại: Số 5 ngõ 92 phố TK, phường LH, quận ĐĐ, TP Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn anh P.L.T trình bày: Anh và chị Đ.T.T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường NTS, quận ĐĐ, TP HN ngày 10/10/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại số 510 đường TC, phường NTS, quận ĐĐ, TP HN. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chị T kiểm soát anh rất khắt khe, anh và gia đình hai bên đã nhiều lần góp ý nhưng chị T không sửa chữa nên làm ảnh hưởng đến tinh thần của anh. Mâu thuẫn cứ kéo dài âm ỷ dẫn đến anh không còn tình cảm với chị T và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2018 cho đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, khả năng đoàn tụ là không thể. Anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Anh và chị T có 01 con chung là P.T.K sinh ngày 20/04/2015. Ly hôn, anh để chị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh tự nguyện đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung là 6.000.000 đồng/ tháng.

- Về tài sản chung ( động sản, bất động sản và các khoản vay nợ): Anh không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về án phí: Anh tự nguyện chịu cả án phí LHST và không có yêu cầu gì đối với chị T.

Ngoài các yêu cầu trên, anh không có yêu cầu nào khác.

* Tại bản tự khai, chị Đ.T.T trình bày: Chị xác nhận về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn và địa chỉ chung sống như anh T trình bày là đúng. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị và mẹ chồng không hòa thuận, chị còn trẻ nên cách ứng xử chưa khéo với mẹ chồng. Mặt khác, do anh T làm công an, hay đi sớm về muộn nên dẫn đến chị mất lòng tin và hay nghi nghờ anh T không chung thủy. Do đó, chị có ghen tuông và hay kiểm soát anh T. Nay anh T cương quyết ly hôn, chị không đồng ý vì chị vẫn còn tình cảm với anh T. Chị cũng xác định là có lỗi khi chưa chỉn chu với anh T cũng như gia đình nhà chồng nên chị sẽ cố gắng sửa chữa để vợ chồng về đoàn tụ nuôi dạy con cái.

- Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung như anh T trình bày là đúng. Trường hợp phải ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và đồng ý với mức cấp dưỡng nuôi con chung của anh T là 6.000.000 đồng/ tháng.

- Về tài sản chung (động sản, bất động sản và các khoản vay nợ): chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ngoài quan điểm, yêu cầu đã trình bày ra, chị không có yêu cầu nào khác.

Tại phiên tòa, anh T xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị T. Chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu như đã trình bày và không xuất trình chứng cứ tài liệu nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có ý kiến: Việc Thẩm phán tiến hành tố tụng giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng trình tự xét xử quy định từ Điều 243 đến Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Các bên đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của anh T. Anh T được ly hôn với chị T.

Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của anh T để chị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con 6.000.000đ/ tháng.

Về tài sản chung (động sản, bất động sản và các khoản vay nợ): Anh chị không yêu cầu Tòa giải quyết nên không xem xét. Các đương sự phải chịu án phí theo pháp luật.

Luật sư C sau khi trình bày các luận cứ bảo vệ quyền lợi cho anh T đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của anh T. Anh T được ly hôn với chị T.

Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của anh T để chị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con 6.000.000đ/ tháng.

Về tài sản chung (động sản, bất động sản và các khoản vay nợ): Anh chị không yêu cầu Tòa giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, chị T đang thường xuyên sinh sống tại số 5 ngõ 92 phố TK, phường LH, quận ĐĐ, TP HN. Do vậy, căn cứ điểm a khoản 1 điều 35 bộ luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân quận Đống Đa.

{2} Về nội dung: Anh P.L.T và chị Đ.T.T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường NTS, quận ĐĐ, TP HN ngày 10/10/2014. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Quá trình chung sống, anh chị đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, cuộc sống chung không hạnh phúc nên đã sống ly thân, không có sự quan tâm đến nhau. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị T. Chị T không đồng ý ly hôn với anh T vì chị xác định vẫn còn tình cảm với anh T.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân tồn tại phải trên cơ sở tình cảm tự nguyện của cả hai bên, không vì bất cứ mục đích nào khác. Thực tế hôn nhân của anh T chị T không còn hạnh phúc khi anh chị không còn lòng tin đối với nhau. Công việc của anh T là công an hình sự nên phải đi sớm về muộn. Đáng lẽ chị T phải thông cảm và động viên, nhưng chị lại thiếu sự tin tưởng nên thường xuyên kiểm soát anh T một cách khắt khe. Mặt khác, bản thân chị T cũng thừa nhận mình còn trẻ, thiếu khéo léo trong cách ứng xử với nhà chồng dẫn đến mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu. Từ những mâu thuẫn trên dẫn đến việc anh T không còn tình cảm với chị T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải và tại phiên tòa hôm nay anh T cũng xin xét xử vắng mặt. Điều đó chứng tỏ anh T xác định không còn tình cảm với chị T và anh cũng không muốn hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Do vậy cuộc sống chung vợ chồng giữa anh T và chị T không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh T là hoàn toàn phù hợp với điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Anh T và chị T có 01 con chung là P.T.K sinh ngày 20/04/2015. Ly hôn, anh T và chị T đều đồng ý thống nhất để chị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh T tự nguyện đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung là 6.000.000 đồng/ tháng. Xét thấy, việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng phải trên cơ sở quyền lợi của con được đảm bảo. Cháu K hiện còn nhỏ nên để chị T trực tiếp nuôi con là đảm bảo. Do đó, việc thỏa thuận của anh chị là hoàn toàn tự nguyện và không trái pháp luật nên được ghi nhận.

- Về tài sản chung (động sản, bất động sản và các khoản vay nợ): Anh T và chị T không yêu cầu Tòa giải quyết.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ Điều 56,81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Điều 143, 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ vào Nghị quyết 326 về phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của anh P.L.T. Anh P.L.T được ly hôn chị Đ.T.T.

2. Về con chung: Xác nhận anh P.L.T và chị Đ.T.T có 01 con chung là P.T.K sinh ngày 20/04/2015.

Ghi nhận sự tự nguyện của anh P.L.T và chị Đ.T.T khi ly hôn: Giao chị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là P.T.K. Anh T tự nguyện đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung là 6.000.000 đồng/ tháng kể từ tháng 04/2019 cho đến khi con chung trường thành đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác thay thế.

Anh P.L.T có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung (động sản, bất động sản) và các khoản vay nợ: Anh P.L.T và chị Đ.T.T không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Ghi nhận sự tự nguyên của anh P.L.T tự nguyện nộp cả 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Xác nhận anh T đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0008116 ngày 24/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quân Đống Đa.

- Anh P.L.T phải chịu 300.000 đồng án phí tiền cấp dưỡng nuôi con chung (Chưa nộp).

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị T, vắng mặt anh T. Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:14/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;