Bản án 14/2018/DS-ST ngày 26/10/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 14/2018/DS-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại Hội trường xét xử dân sự Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 05/2018/TLST- DSTC, ngày 17 tháng  01 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng:

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2018/QĐST-DSTC ngày 25 tháng 9  năm  2018,  và quyết  định  hoãn  phiên  tòa  số:  01/2018/QĐST-  DSTC  ngày 10/10/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang.

Đại diện theo ủy quyền: ông Hoàng Đức N - chức vụ: Phó Giám đốc; Địa chỉ:  Tổ 13, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Phạm Thế H - sinh năm 1979. Địa chỉ: Ban Chỉ Huy Quân Sự, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Nơi ĐKHKTT:   Tổ 04, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. (Vắng mặt không có lý do).

3.Người có QLNVLQ:  Ban Chỉ Huy Quân sự, huyện Q. Địa chỉ: Tổ 03, Thị trấn Yên Bình, huyện Q, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày  17/01/2018 và quá trình tố tụng nguyên đơn Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh  tỉnh Hà Giang  đại diện theo ủy quyền  ông  Hoàng Đức N trình bày: Vào ngày 08 tháng 7 năm 2016 Ngân hàng  TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang  đã thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng số 284/TDH/2016 tại Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang  cho ông Phạm Thế H vay số tiền 250.000.000đ( Hai trăm năm mươi triệu đồng chẵn), mục đích  vay mua sắm đồ dùng sinh hoạt trong gia đình,  thời hạn  vay  60  tháng, mức lãi xuất là 12%/ năm, từ tháng thứ 4 trở đi  định kỳ điều chỉnh 3 tháng / lần. Tại giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ với số tiền 250.000.000đ,  kỳ hạn trả nợ gốc  vào ngày 25 hàng tháng , mỗi kỳ trả 4.170.000đ/ tháng, kỳ cuối trả 3.970.000đ/ tháng, ngày trả nợ cuối cùng 08/7/2021. Hình thức cho vay không có tài sản bảo đảm, trừ lương hàng tháng với số tiền 4.170.000đ/ tháng (Bốn triệu một trăm bẩy mươi nghìn đồng), thông qua giấy ủy quyền giữ lại thu  nhập để trả nợ của BCHQS huyện Q, tỉnh Hà Giang, thời điểm vay tiền khách hàng Phạm Thế H đang công tác tại BCH QS huyện Q, tỉnh Hà Giang. Quá trình  thực hiện hợp đồng ông  Phạm Thế H đã vi phạm cam kết về việc thực hiện  nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang, và để phát sinh nợ quá hạn từ ngày 01/05/2017. Ngân hàng  TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang đã đôn đốc khách hàng  và thực hiện nhiều biện pháp xử lý thu hồi nợ, hiện nay anh H đã được xuất ngũ về địa phương tại tổ 04, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông   Phạm Thế H có trách nhiệm trả khoản   vay nợ   gốc hiện còn là 177.318.000đ( Một trăm bẩy mươi bẩy triệu, ba trăm mươi tám nghìn đồng) và lãi suất tính đến ngày 26/10/2018 là : 48.834.622đ(Bốn mươi tám triệu, tám trăm ba mươi bốn nghìn, sáu trăm hai mươi hai đồng), trong đó lãi suất 36.138.104 đ(Ba mươi sáu triệu một trăm ba mươi tám nghìn, một trăm linh bốn đồng), phạt lãi là 5.581.586đ (Năm triệu năm trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi sáu nghìn đồng), lãi gốc quá hạn là: 7.114.932đ (Bẩy triệu một trăm mươi bốn nghìn chín trăm ba mươi hai đồng)

Ngân hàng đã thông báo cho khánh   hàng   ông Phạm Thế H và BCHQS huyện Q phối hợp thu nợ qua việc thanh toán các  chế độ của Phạm Thế H để trả nợ  trên, nhưng khách hàng Phạm Thế H và BCHQS huyện Q không hợp tác.

Bị đơn  ông  Phạm Thế  H và quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập ông H nhiều lần đến Tòa án để giải quyết vụ án theo địa chỉ do nguyên đơn cung cấp nhưng qua xác minh tại BCHQS huyện Q, tỉnh Hà Giang, được   BCHQS huyện Q cung cấp cho biết hiện nay ông  H đã có quyết định  phục viên về  địa phương, hiện không có mặt tại   BCHQS huyện Q, ông  H đi đâu làm gì đơn vị không biết. Tòa án thành phố H đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho  ông  H đến Tòa án để giải quyết vụ án theo  quy định.

Tại biên bản làm việc của  Ban chỉ huy quân sự huyện Q, tỉnh Hà Giang cho biết  anh Phạm Thế H trước đây là quân nhân tại đơn vị, đến ngày 8/11/2017 anh H có quyết định  phục viên, hiện nay đơn vị đang làm  thủ tục giải quyết chế độ cho anh H theo Nghị định 21/CP của chính phủ  với số tiền 142.021.000đ, và được giữ lại  BHXH do ông H có yêu cầu tiếp tục đóng bảo hiểm, việc Tòa án có văn bản  yêu cầu đơn vị  tạm dừng việc chi trả chế độ cho anh H, về phía  đơn vị không nhất trí về việc chi trả phải thực hiện theo đúng quy định, hiện ngân hàng có đơn khởi kiện đòi nợ  anh H, đơn vị sẽ tạo mọi điều kiện  thuận lợi nhất với ngân hàng.

Tại biên bản làm việc ngày 21/03/2018 với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Giang, được Ban cán bộ của Bộ CHQS tỉnh  cung cấp  Ông  Phạm Thế H cấp bậc trung úy thuộc BCHQS tỉnh  Hà Giang đã có quyết định phục viên, Ban cán bộ đã thông báo cho BCHQS huyện Q lên nhận hồ sơ, đồng thời chuyển hồ sơ cho Ban Tài chính BCHQS tỉnh  làm thủ tục thanh toán chế độ cho ông H, việc chi trả chế độ do Ban CHQS huyện Q  trực tiếp chi trả cho ông H. việc chi trả như thế nào Ban cán bộ và Ban tài chính BCHQS tỉnh không tham gia, chế độ của ông H là 142.021.000đ, và bảo lưu quá trình đóng bảo  hiểm.

Ngân hàng đã thông báo cho khánh hàng Ông Phạm Thế H và BCHQS huyện Q phối hợp thu nợ qua việc thanh toán các chế độ của Phạm Thế H  để trả nợ trên, nhưng khách hàng  Phạm Thế H và BCHQS huyện Q không hợp tác.

Bị đơn  ông  Phạm Thế  H  và  quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập ông H nhiều lần đến Tòa án để giải quyết vụ án theo địa chỉ do nguyên đơn cung cấp nhưng qua xác minh tại BCHQS huyện Q, tỉnh Hà Giang, được BCHQS huyện Q cung cấp  cho biết hiện nay  ông  H đã có quyết định xuất ngũ về  địa phương,  hiện không có mặt tại  BCHQS huyện Q, ông  H đi đâu làm gì đơn vị biết. Tòa án thành phố H đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho ông  H đến Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thu thập chứng cứ tại Ban chỉ huy quân sự huyện Q, tỉnh Hà Giang đã xác định được anh Phạm Thế H trước đây là quân nhân của Ban chỉ huy quân sự huyện Q, tỉnh Hà Giang, đến ngày 8/11/2017  anh H có quyết định  phục viên, hiện nay đơn vị đang làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh H theo Nghị định 21/CP của chính phủ với số tiền 142.021.000đ, và  được giữ lại sổ  do anh H có yêu cầu tiếp tục đóng bảo hiểm, việc Tòa án có văn  bản  yêu cầu đơn vị  tạm dừng việc chi trả chế độ cho anh H, về phía  đơn vị không nhất trí về việc chi trả phải thực hiện theo đúng quy định.

Nay ngân hàng  có đơn khởi kiện đòi nợ  anh H, quan điểm của Ban chỉ huy quân sự huyện Q, tỉnh Hà Giang là sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất với ngân hàng. Ngoài ra Tòa án cũng đã xác minh với  Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Giang, được  Bộ CHQS tỉnh  cung cấp  Ông  Phạm Thế H cấp bậc trung úy thuộc BCHQS tỉnh  Hà Giang đã có quyết định phục viên, Ban cán bộ đã thông báo cho BCHQS huyện Q lên nhận hồ sơ, đồng thời chuyển hồ sơ cho Ban Tài chính BCHQS tỉnh làm thủ tục thanh toán chế độ cho ông H, việc chi trả chế độ do Ban CHQS huyện Q  trực tiếp chi trả cho ông H. việc chi trả như thế nào Ban cán bộ và Ban tài chính BCHQS tỉnh không  tham gia, chế độ của ông H là 142.021.000đ, và bảo lưu quá trình đóng bảo hiểm.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm ban đầu đề nghị Hội đồng xét  xử  buộc  ông  Phạm  Thế  H  có  trách  nhiệm  trả  khoản  nợ  vay  hiện  còn 177.318.000 đồng và lãi xuất tính  đến ngày 26/10/2018 là: 48.834.622đ.

Bị đơn vắng mặt không có lý do nên không có quan điểm của mình. Người có QLNVLQ không bổ sung ý kiến gì khác.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà,Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự theo quy định tại Điều 68, 71, 72, 73 Bộ luật Tố tụng Dân sự.  Việc chấp hành pháp luật của đương sự nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn, người có QLNVLQ  không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng  vi phạm khoản 15, 16 Điều 70, Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Người có QLNVLQ - BCHQS huyện Q vi phạm quy định tại khoản 15, 16 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 95 Luật tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 280, 357 và  điểm b; khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự;  đề nghị  Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc  ông Phạm Thế H phải trả  cho Ngân hàng TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang số tiền nợ gốc:  177.318.000đ( Một trăm bẩy mươi bẩy triệu, ba trăm mươi tám nghìn đồng) và lãi lãi trong hạn là  36.138.104đ(Ba mươi sáu triệu một trăm ba mươi tám nghìn, một trăm linh bốn đồng), phạt chậm trả lãi là 5.581.586đ (Năm triệu năm trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi sáu nghìn đồng), Phạt chậm trả gốc: 7.114.932đ (Bẩy triệu một trăm mươi bốn nghìn chín trăm ba mươi hai đồng) Tổng  cộng là : 226.152.622đ ( Hai trăm hai mươi sáu triệu, một trăm bốn mươi hai nghìn, sáu trăm  hai mươi hai đồng) và tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi xuất quá hạn    của Ngân hàng kể từ ngày 27/10/2018 cho đến ngày ông Phạm Thế Htrả hết nợ gốc.

-  Về  án  phí: Khoản  2  Điều  26  Nghị  quyết  326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc  ông  Phạm Thế Hphải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định là 11.307.613đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:  Bị đơn  ông  Phạm Thế H sau khi  phục viên về địa phương sinh sống tại tổ 04, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian sinh sống tại đây đã được phía nguyên đơn cung cấp và Tòa án cũng đã xác minh là ông H đúng là về sinh sống tại địa chỉ trên nhưng không thường xuyên có mặt tại nơi cư trú và cũng không xác định được địa chỉ nào khác của ông Phạm Thế H, do đó Tòa án xác định đây là nơi cư trú cuối cùng của ông H và tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng là đúng theo trình tự của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa ông H vắng mặt lần hai không có lý do HĐXX  căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt Phạm Thế H.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Ngày  08/7/2016 Ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang và  ông  Phạm Thế H đã thỏa thuận và ký kết hợp đồng tín dụng số 1284/TDH/2016 tại Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang   cho ông Phạm Thế H vay số tiền 250.000.000đ( Hai trăm năm mươi triệu đồng chẵn).  Quá trình  thực hiện hợp đồng ông  Phạm Thế H đã vi phạm cam kết về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ  với ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang, và để phát sinh nợ quá hạn từ  01/4/2017. Như vậy xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp là hợp đồng tín dụng và là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung: Giữa Ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang và ông Phạm Thế H đã ký kết thỏa thuận Ngân hàng co ông H vay với số tiền 250.000.000đ thời hạn vay là 60 tháng, lãi xuất là 12%/ năm mục đích vay là mua sắm đồ dùng sinh hoạt. Quá trình thực hiện hợp đồng Ngân hàng đã thực hiện việc giải ngân cho ông H, bản thân ông H đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho đến 31/3/2017  đến nay ông H đã vi phạm thỏa thuận đã ký kết hợp đồng, phía ngân hàng đã có thông báo ông H đến để giải quyết nhưng ông H không hợp tác , do đó Ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giả quyết buộc ông H phải thanh toán trả nợ cho Ngân hàng.

Xét  yêu cầu của  Ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang  đề nghị buộc ông Phạm Thế H có trách nhiệm thanh toán trả số tiền nợ gốc và lãi suất theo hợp  đồng  tín  dụng  đã  ký  kết  là có  cơ  sở  bởi  lẽ:  Hợp  đồng  tín  dụng  số 1284/TDH/201   giữa ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang và  ông H đã ký kết ngày 08/7/2016 là hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện và đúng pháp luật.

Việc ông H vi phạm thỏa thuận của hợp đồng  đã phát sinh nợ gốc, lãi quá hạn từ ngày  01/4/2017. Về số tiền nợ   gốc   là 177.318.000đ và lãi tính đến ngày 26/10/2018 là 48.834.622đ ngoài số tiền gốc ông H chưa trả thì lãi xuất phía ngân hàng đã có sự điều chỉnh và tính lãi phạt, lãi nợ quá hạn đúng theo quy định của luật tín dụng cũng như bộ luật dân sự. Nay ông H vắng mặt ở nơi cư trú, cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Căn cứ  vào Điều 95 Luật tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang  buộc ông Phạm Thế H phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng  TMCP B – Chi nhánh tỉnh Hà Giang   số tiền nợ gốc là 177.318.000đ  và  lãi  tính  đến  ngày  26/10/2018  là  48.834.622đ, Tổng  cộng  là 226.142.622đ ( Hai trăm hai mươi sáu triệu, một trăm bốn mươi hai nghìn, sáu trăm hai mươi hai đồng) là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm của BCHQS huyện Q, ngày 22/3/2018 Tòa án nhân dân thành phố H  đã  có  công văn  v/v yêu cầu đơn vị  ngừng chi trả chế độ thanh toán số tiền 142.021.600đ để đảm bảo việc giải quyết vụ án và thi hành án khi ông H phục viên, nhưng đơn vị Ban  chỉ huy quân sự  huyện Q đã không thực hiện công văn của Tòa án mà cố tình chi trả chế độ  số tiền trên cho các khoản nợ  ngoài của  ông H là  vi phạm và thiếu trách nhiệm, không hợp tác  trong việc phối hợp giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Bị đơn  ông  Phạm Thế H phải chịu án phí  dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền là 11.307.131đ(Mười một triệu, ba trăm linh bẩy nghìn một trăm ba mươi mốt đồng) theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Ý b; 1.3 danh mục II danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 95 Luật tổ chức tín dụng năm 2010, Điều 280. 357 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;  Điều 144; Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ý b; 1.3 danh mục II danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng  TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang về việc yêu cầu  ông  Phạm Thế H trả nợ số tiền đã vay.

Tuyên xử: Buộc ông Phạm Thế H có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh tỉnh Hà Giang số tiền nợ gốc là 177.318.000đ( Một trăm bẩy mươi bẩy triệu, ba trăm mươi tám nghìn đồng) và lãi lãi trong hạn là  36.138.104 đ(Ba mươi sáu triệu một trăm ba mươi tám nghìn, một trăm linh bốn đồng), phạt chậm trả lãi là 5.581.586đ (Năm triệu năm trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi sáu nghìn đồng), Phạt chậm trả gốc: 7.114.932đ (Bẩy triệu một trăm mươi bốn nghìn chín trăm ba mươi hai đồng) Tổng  cộng là : 226.152.622đ ( Hai trăm hai mươi sáu triệu, một trăm bốn mươi hai nghìn, sáu trăm  hai mươi hai đồng)  và tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi xuất quá hạn   của Ngân hàng kể từ ngày 27/10/2018 cho đến ngày ông Phạm Thế H trả hết nợ gốc.

Kể từ ngày 27/10/2018 bên phải thi hành án phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi đối với khoản nợ gốc là 177.318.000đ( Một trăm bẩy mươi bẩy triệu, ba trăm mươi tám nghìn đồng) cho đến khi thanh toán xong theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết.

2. Về án phí:  Ông Phạm Thế H phải chịu tiền án phí dân sự  sơ thẩm có giá ngạch là 11.307.631đ (Mười một triệu, ba trăm linh bẩy nghìn sáu trăm ba mươi mốt đồng)

Trả  lại  cho  Ngân  hàng    TMCP  B  –  Chi  nhánh  tỉnh  Hà  Giang  số  tiền 6.030.000đ( Sáu triệu không trăm ba mươi nghìn đồng chẵn) tạm ứng án phí . Ngân hàng đã nộp ( Do Hoàng Đức N nộp thay) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H theo biên lai số  00682, ngày 17/01/2018.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hánh án dân sự có quyền thoả thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a  và 9 Luật Thi hành án dân sự: Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, người có QLNVLQ,  vắng mặt bị đơn. Báo cho nguyên đơn, người có QLNVLQ có mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt biết có quyền  kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2018/DS-ST ngày 26/10/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:14/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Giang - Hà Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;