Bản án 14/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 14/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số; 22/2017/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2017/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2017, đối với các bị cáo.

1. Đinh Công Th; tên gọi khác, không, sinh năm 1995. Trú tại; Tiểu khu Bó Bun, thị trấn Ntrường MC, huyện MCh, tỉnh Sơn La. Giới tính nam, tôn giáo không, Quốc tich Việt Nam. Dân tộc: Mường; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông; Đinh Công Th ( Đã chết ), con bà; Mùi Thị M ( Đã chết). Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự; không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 02 tháng 10 năm 2017 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Bùi Anh T; tên gọi khác, không, sinh năm 1980. Trú tại; Tiểu khu 66, thị trấn N trường MC, huyện MC, tỉnh Sơn La. Giới tính nam, tôn giáo không, Quốc tich Việt Nam. Dân tộc: Mường; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông; Bùi Văn T (Đã chết), con bà; Bùi Thị Ng 63 tuổi. Bị cáo có vợ; Hà Thị Ch 29 tuổi, bị cáo có 02 con, con lớn nhất 7 tuổi, con nhỏ nhất 02 tuổi. Tiền án, tiền sự; không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 02 tháng 10 năm 2017 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Công Th là người làm thuê cho Bùi Anh T đang xây dựng công trình tại tiểu khu Pa Khen 2, thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Khoảng 8 giờ ngày 02/10/2017, Th hỏi ứng tiền công với T để đi mua ma túy để sử dụng, T đồng ý và xin Th cho đi cùng. Th và T đi xe Taxi của một người không quen biết đến bản Pa Cốp, xã Vân Hồ thì xuống xe. T đưa cho Th 200.000 đồng, sau đó đứng ở đường đợi Th. Tại đường dân sinh bản Pa Cốp, Th gặp và hỏi mua của một người dần ông dân tộc Mông không quen biết được 01 gói Hêroin với giá là 200.000 đồng và đi ra chỗ Tu đợi. Sau đó Th và T đi vào vườn dong bên đường lấy 01 ít Hêroin ra cùng nhau sử dụng. Số Hêroin còn lại, T gói lại như cũ sau đó cầm tay trái rồi cùng Th đi về nhà. Đến 10 giờ cùng ngày khi đang đi bộ trên đường dân sinh tại bản Pa Cốp thì bị tổ công tác Công an huyện Vân Hồ kiểm tra phát hiện và bắt quả tang đang có hành vi vận chuyển, cất giấu trái phép chất ma túy thu giữ vật chứng vụ án gồm có;

01 (một) gói bên ngoài được gói bằng giấy bạc màu vàng, tiếp đến là nilon màu xanh bên trong có đựng một ít bột màu trắng nghi là Hêroin, Th và T khai là Hêroin, cân tịnh được 0,24 gam rút 0,09 gam gửi giám định chất ma túy còn lại 0,15 gam ( Đã được niêm phong ). Tạm giữ của Bùi Anh T, 200.000 đồng tiền NHNN Việt Nam.

Tại bản kết luận giám đinh số: 930/KLMT ngày 05/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám đinh ký hiệu “TT” là chất ma túy; loại chất Hêrôin. Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam, tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,24 gam, loại chất Hêrôin”.

Tại bản Cáo trạng số: 91/CT-VKS ngày 14/11/2017 của Viện kiểm sát nhân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T về tội; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T phạm tôi: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 20, Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc Hội.

Đề nghị xử phạt bị cáo Đinh Công Th từ 18 (Mười tám) tháng tù đến 21(Hai mươi mốt) tháng tù.

Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Anh T từ 15 (Mười lăm) tháng tù đến 18 (Mười tám) tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T  được quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đề nghị áp điểm a, đ khoản 2, 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đề nghị tuyên tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,15 gam Hêroin và vỏ gói niêm phong ban đầu của bị cáo Đinh Công Th. Tuyên tạm giữ 200.000 đồng tiền NHNN Việt nam của bị cáo Bùi Anh T để đảm bảo Thi hành án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nhà nước.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T về tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và quan điểm luận tội tại phiên tòa đối với các bị cáo.

Ý kiến của các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T nhất trí như Quyết đinh truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt thấp nhất trong khung hình phạt đề nghị của Viện Kiểm sát đối với các bị cáo và không áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Ngày 02/10/2017, Đinh Công Th cùng Bùi Anh T đều trú tại thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Bị phát hiện và bắt quả tang tại đường dân sinh bản Pa Cốp, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Đang cùng nhau vận chuyển, cất giấu trái phép 0,24 gam Hêroin. Mục đích cùng nhau mua lại 0,24 gam Hêroin, vận chuyển, cất giấu tàng trữ để cùng nhau sử dụng cho các bản thân. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những lời khai tại cơ quan điều tra, kết luận giám định ma túy, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện đủ căn cứ kết luận các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh Tu phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, vi phạm khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 như Quyết định truy tố và Quan điểm luận tội tại phiên toà của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La là có căn cứ đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “ Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định“ Người  nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.

a,............................

c, Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetaminne, MDMA có  khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam.

Như vậy mức hình phạt đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhẹ hơn khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999.

Xét hành vi cùng nhau mua lại vận chuyển, cất giấu, tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T với số lượng tàng trữ không lớn. Mục đích cùng nhau mua ma túy, vận chuyển,cất giấu tàng trữ để cùng nhau sử dụng cho bản thân. Bị cáo Đinh Công Th là người trực tiếp khởi sướng, trực tiếp dùng tiền mua ma túy. Bị cáo Bùi Anh T dùng vật chất, trực tiếp cất giấu ma túy, để cả hai trực tiếp thực hiện tích cực việc thực hiện phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý cuả Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương cần vận dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 7,  điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc Hội, xét xử hướng có lợi đối với các bị cáo.

Xét nhân thân bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Các bị cáo phạm tội trong vai trò đồng phạm cần vận dụng Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999, bị cáo Bùi Anh T phạm tội trong vai trò đồng phạm giúp sức với bị cáo Đinh Công T vận dụng Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo Bùi Anh T. Xong các bị cáo đều nhận thức biết rõ tác hại của ma tuý là nhà nước cấm các bị cáo am hiểu pháp luật nhưng do coi thường pháp luật nghiện ma túy nên cố tình phạm tội nghiêm trọng.

Xét quan điểm luận tội tại phiện toà của Viện kiểm sát nhân dân, ý kiến của các bị cáo tại phiên toà xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo phần nhiều là có căn cứ đúng pháp luật cần được chấp nhận. Nay xét thấy cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ thời gian giáo dục các bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung nhất là công tác phòng chống tội phạm nói chung và công tác phòng chống tội phạm ma túy trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có tài sản, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[2]. Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong qua trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tham gia tố tụng tuân theo và chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về nguồn gốc 0,24 gam Hêrôin bị thu giữ, theo lời khai của Th là Th mua của một người dân tộc Mông không biết tên và địa chỉ cụ thể, cơ quan điều tra đã điều tra, xác minh ngoài lời khai của Th và T ra không có chứng cứ nào khác cơ quan điều tra không có cứ xử lý người bán ma túy cho Đinh Công Th.

[3]. Về vật chứng của vụ án: Số ma túy của bị cáo là hàng quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành,vỏ gói niêm phong ban đầu không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy, đối với số tiền cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo Bùi Anh T nay xét thấy không liên quan đến vụ án cần tuyện tạm giữ để đảm bảo thi hành án vận dụng điểm a, đ khoản 2, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí:  Các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của Nhà nước vận dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Đinh Công T, Bùi Anh T có quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 20, Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc Hội. Điểm a, đ khoản 2, khoản 3  Điều 76, Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T phạm tội; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Đinh Công T 19 ( Mười chín ) tháng tù. “ Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 02/10/2017”.

Xử phạt bị cáo Bùi Anh T 15 ( Mười lăm ) tháng tù. “ Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 02/10/2017”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T được quy đinh tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

3. Về vật chứng vụ án: Tuyên tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong bên ngoài ghi vật chứng ký hiệu , trọng lượng 0,15 gam Hêroin và vỏ gói niêm phong ban đầu. Tuyên tạm giữ của bị cáo Bùi Anh T 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) tiền NHNN Việt Nam để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo Đinh Công Th, Bùi Anh T biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;