TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA GRAI, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 14/2017/DS-ST NGÀY 28/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 28 tháng 8 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2017/TLST-DS ngày 28 tháng 02 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2017/QĐXXST-DS, ngày 26 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc T; Địa chỉ nơi cư trú: Thôn 1, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai; Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Chu Thị H; Địa chỉ nơi cư trú: Thôn 1, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Trong Đơn khởi kiện ngày 16-02-2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Ngọc T trình bày:
Ngày 16-01-2014, ông Nguyễn Ngọc T cho bà Chu Thị H vay số tiền100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), bà H hẹn đến ngày 30-12-2014 sẽ trả toàn bộ số tiền gốc nêu trên và tiền lãi phát sinh, giữa hai thỏa thuận mức lãi suất là1,5%/tháng. Đến thời hạn trả nợ nhưng bà H vẫn chưa trả tiền cho ông T. Do vậy, ông T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Chu Thị H phải trả cho ông T toàn bộ số tiền nợ gốc 100.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật là 36.875.000 đồng(Ba mươi sáu triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ: Giấy nhận tiền đề ngày 16-01-2014;
Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: Biên bản xác minh ngày 28-02-2017; Giấy biên nhận tiền ngày 19-4-2017; 02 Chứng từ giao dịch ngày 24-5-2017; 02 Giấy nộp tiền ngày 23-5-2017; Hợp đồng thông báo nhắn tin số 98NT/17/HĐTT-CNHCM ngày25-5-2017; Hóa đơn giá trị gia tăng ngày 25-5-2017; Hóa đơn giá trị gia tăng ngày28-5-2017; Báo nhân dân số 22513 ngày 26-5-2017; số 22514 ngày 27-5-2017 và số22515 ngày 28-5-2017;
2. Tòa án đã thực hiện việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn Chu Thị H đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng bà H cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của bà H.
3. Phát biểu ý kiến tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật; Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng kể từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến trước khi nghị án; Đối với bị đơn Chu Thị H đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Các bên xác lập hợp đồng vay tiền vào ngày 16-01-2014 và thời hạn trả nợ là ngày 30-12-2014 nên luật nội dung được áp dụng là Bộ luật Dân sự năm 2005. Vụ án thụ lý ngày 28-02-2017 nên pháp luật tố tụng áp dụng để giải quyết là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về thời hiệu khởi kiện, ngày 31-01-2016 là hết thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng vay nhưng đến ngày 16-02-2017 nguyênđơn mới khởi kiện. Tuy nhiên vì các đương sự không ai có yêu cầu về áp dụng thời hiệu nên Tòa án không áp dụng theo quy định tại Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với bị đơn Chu Thị H đã được Tòa án thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt theo giấy triệu tập, không cung cấp chứng cứ nên phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh được và Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt.
[2] Về số tiền vay: Chứng cứ mà ông Nguyễn Ngọc T cung cấp là “Giấy nhận tiền đề ngày 16-01-2014” thể hiện, ngày 16-01-2014, bà Chu Thị H có vay của ông Nguyễn Ngọc T số tiền gốc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), thời hạn trả nợ là ngày 30-12-2014. Nhưng đến thời hạn trả nợ bà H không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền cho ông T. Do vậy, ông T yêu cầu bà H phải trả số tiền nợ gốc là100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về số tiền lãi: Chứng cứ mà ông Nguyễn Ngọc T cung cấp là “Giấy nhận tiền đề ngày 16-01-2014” thể hiện các bên thỏa thuận lãi suất là 1,5%/tháng, thỏa thuận nêu trên là vượt quá quy định tại khoản 1 Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005 nên chỉ được tính lại là 1,125%/tháng. Như vậy tiền lãi trong hạn được tính từ ngày 16-01-2014 đến ngày 30-12-2014 là 11 tháng 14 ngày là {(100.000.000 đồng x 11 tháng x 1,125%/tháng) + {(100.000.000 đồng x 14 ngày x 0,0375%/ngày)} = 12.900.000đồng (Mười hai triệu chín trăm nghìn đồng); Tiền lãi quá hạn từ ngày 31-12-2014 đến ngày xét xử sơ thẩm là 02 năm 07 tháng 29 ngày là {(100.000.000 đồng x 02 năm x9%/năm) + (100.000.000 đồng x 07 tháng x 0,75%/tháng) + {(100.000.000 đồng x 29 ngày x 0,025%/ngày)} = 23.975.000 đồng (Hai mươi ba triệu chín trăm bảy mươi lăm nghìn đồng). Tổng cộng tiền lãi là 36.875.000 đồng (Ba mươi sáu triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
[4] Về số tiền phải trả: Tổng số tiền mà bà Chu Thị H phải trả cho ông Nguyễn Ngọc T đến thời điểm xét xử sơ thẩm là 136.875.000 đồng (Một trăm ba mươi sáu triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), trong đó số tiền nợ gốc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), tiền lãi trong hạn là 12.900.000 đồng (Mười hai triệu chín trăm nghìn đồng), tiền lãi quá hạn là 23.975.000 đồng (Hai mươi ba triệu chín trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
[5] Đối với toàn bộ số tiền lệ phí thông báo thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng là 5.144.000 đồng (Năm triệu một trăm bốn mươi bốn nghìn đồng), nguyên đơn là người có nghĩa vụ thông báo nên phải chịu chi phí này (Nguyên đơn đã nộp đủ).
[6] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 144, Điều 147, Điều 184, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng khoản 2 Điều 305, Điều 474, Điều 476 và Điều 478 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc T.
Buộc bà Chu Thị H phải trả cho ông Nguyễn Ngọc T số tiền nợ tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm (Ngày 28-8-2017) là 136.875.000 đồng (Một trăm ba mươi sáu triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), trong đó số tiền nợ gốc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), tiền lãi trong hạn là 12.900.000 đồng (Mười hai triệu chín trăm nghìn đồng), tiền lãi quá hạn là 23.975.000 đồng (Hai mươi ba triệu chín trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Buộc bà Chu Thị H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 6.843.750 đồng (Sáu triệu tám trăm bốn mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng); Ông Nguyễn Ngọc T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho ông Nguyễn Ngọc T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.181.500 đồng (Bốn triệu một trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000250 ngày 22 tháng 02 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án 14/2017/DS-ST ngày 28/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 14/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về