Bản án 1418/2019/HNGĐ-ST ngày 24/12/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1418/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Vào ngày 24 tháng 12 năm 2019 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 464/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 492/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 tháng 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 411/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1984.

Địa chỉ: C7/14 ấp 3, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Huỳnh Thị Biên T, sinh năm: 1993

Địa chỉ: D9/22 ấp 4, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Ông P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bà T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 05/4/2019, các bản tự khai nguyên đơn ông Nguyễn Thanh P trình bày:

Ông và bà Huỳnh Thị Biên T quen biết nhau qua mai mối, sau đó tìm hiểu nhau được vài tháng thì kết hôn, chung sống với nhau vào năm 2016 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì nảy sinh. Đến khi bà T sinh con thì có xin về nhà mẹ ruột để ở. Trong thời gian bà T sinh con ở bên nhà ngoại, ông vẫn thường xuyên quan tâm, thăm nom, chăm sóc. Tuy nhiên, sau khi con cứng cáp thì ông cùng cha mẹ ruột của mình, qua nhà ba mẹ bà T xin rước mẹ con bà T về thì bà T không chịu về. Từ đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, ông qua thăm con, bà T không cho. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Ông thấy tình cảm vợ chồng cũng không còn nên ông yêu cầu được ly hôn với bà T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 10/11/2017. Hiện nay, trẻ N đang sống với bà T, ông đồng ý giao trẻ N cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông xác nhận không có.

Ngoài ra, ông không có ý kiến và yêu cầu gì khác.

Bị đơn bà Huỳnh Thị Biên T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến giải quyết vụ án về nội dung như sau:

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:

- Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Thanh P đối với bà Huỳnh Thị Biên T.

- Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao trẻ Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 10/11/2017 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của ông P.

- Về án phí: Ông P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ông Nguyễn Thanh P khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Huỳnh Thị Biên T. Bà T có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh nên căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông P có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, bà Huỳnh Thị Biên T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông P và bà T theo quy định tại khoản 1, và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[3] Về quan hệ vợ chồng: Ông Nguyễn Thanh P và bà Huỳnh Thị Biên T chung sống có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn số 152 ngày 09/9/2016 (theo Trích lục kết hôn số 407/TLKH-BS ngày 02/4/2019). Do đó, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa ông P và bà T là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.”

[5] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông P xác nhận ông và bà T chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng, ông bà đã sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của Ủy ban nhân dân xã A, huyện B thì ông P, bà T từng chung sống với nhau tại địa chỉ C7/14 ấp 3A, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn giữa vợ chồng là do bất đồng quan điểm sống. Hiện tại, bà T không còn ở tại địa chỉ trên. Mặt khác, bà T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa ông P và bà T đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông P đối với bà T.

[6] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là trẻ Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 10/11/2017. Theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[7] Ông P đồng ý giao trẻ N cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng. Bà T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nên đã rõ yêu cầu của ông P nhưng bà T không có văn bản nêu rõ ý kiến của mình đối với yêu cầu của ông P và bà cũng không đến Tòa án tham dự các buổi hòa giải, phiên tòa xét xử mà vắng mặt không có lý do. Tòa án căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Ông P xác định hiện nay trẻ N đang sống cùng với bà T. Hơn nữa, hiện nay trẻ N dưới 36 tháng tuổi nên nhằm bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho trẻ N, nên Hội đồng xét xử căn cứ quy đinh tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quyết định tiếp tục giao trẻ N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

[8] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Khoản 1 Điều 81 Lut Hôn nhân và gia đình quy định: “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên,…”. Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”

[9] Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là trách nhiệm nghĩa vụ của cả ông P và bà T. Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho trẻ N có cuộc sống đảm bảo cũng như phát triển bình thường, ông P phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, bà T vắng mặt không thể hiện yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con, nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông P.

[10] Về tài sản chung và nợ chung: Ông P xác nhận vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung. Bà T vắng mặt không thể hiện ý kiến về lời khai của ông P đối với vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa ông với bà, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa bà T và ông P trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[11] Về án phí: Ông Nguyễn Thanh P chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Thanh P đối với bà Huỳnh Thị Biên T.

1.1. Ông Nguyễn Thanh P được ly hôn với bà Huỳnh Thị Biên T.

1.2. Giấy chứng nhận kết hôn số 152 do Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/9/2016 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 10/11/2017. Hiện trẻ N đang sống cùng bà T.

2.1. Giao trẻ Nguyễn Huỳnh Khánh N, sinh ngày 10/11/2017 cho bà Huỳnh Thị Biên T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của ông Nguyễn Thanh P.

2.2. Ông P có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Thanh P chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà ông P đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002009 ngày 16/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông P đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Ông P, bà T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1418/2019/HNGĐ-ST ngày 24/12/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1418/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;