TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 141/2019/HS-PT NGÀY 14/06/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 14 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 92/2019/TLPT-HS ngày 12/4/2019 đối với bị cáo Trương Văn V do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 của Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Thanh Hoá.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trương Văn V, sinh năm 1983, tại huyện S, tỉnh Thanh Hoá. Nơi cư trú: xóm 2, xã M, huyện S, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; tôn giáo: không; quốc tịch V Nam; con ông Trương Văn H (đã chết) và bà Mai Thị T; có vợ Quách Thị A, có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: năm 2012, Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; bị tạm giữ từ ngày 02/11/2017 đến ngày 05/11/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; tại ngoại. Có mặt. Ngoài ra còn có bị cáo Đỗ Thị N không kháng cáo và cũng không bị kháng nghị.
- Người làm chứng:
1. Quách Thị H, sinh năm 1997, Nơi cư trú: thôn C, xã C, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. vắng mặt
2. Bùi Thị T, sinh năm 1988; Nơi cư trú: thôn C, xã C, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. vắng mặt.
- Người cần xét hỏi được triệu tập đến phiên tòa: Ông Đặng K, Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện S. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21h15’ ngày 28/10/2017, Công an huyện S bắt quả tang tại nhà nghỉ G, địa chỉ khu 2 thị trấn S, huyện S, tỉnh Thanh Hóa, tại phòng 203 Trần Văn T đang quan hệ tình dục với Quách Thị H tại phòng 203, Vũ Đình Long đang chuẩn bị quan hệ tình dục với Bùi Thị T tại phòng 204.
Quá trình điều tra xác định: khoảng 15h ngày 28/10/2017, Quách Thị H (tức Quách Thị T) đi tìm nhà trọ tại khu vực Ngã năm, xã M, huyện S. Quách Thị H gặp Trương Văn V, do có quen biết nên H nhờ V tìm giúp nhà trọ. Do chưa tìm được việc làm, H muốn đi bán dâm cho khách để kiếm tiền nên nhờ V giới thiệu nếu ai có nhu cầu, V đồng ý thỏa thuận tiền bán dâm sẽ chia đôi, và lấy số điện thoại của H để liên lạc, và chỉ nhà trọ để H thuê. Sau đó V gọi điện đến nhà nghỉ G gặp Đỗ Thị N và nói nếu khách có nhu cầu mua dâm thì điện thoại báo cho V. Khoảng 21h ngày 28/10/2017, khi anh Trần Văn T và Vũ Đình l đến nhà nghỉ G hỏi có gái không gọi cho hai em thì Đỗ Thị N là người làm cho nhà nghỉ G (chủ nhà đi vắng) hướng dẫn anh T và anh L lên phòng 203 và 204. Sau đó Đỗ Thị N gọi điện cho Trương Văn V nói là cho hai gái đến nhà nghỉ G, có khách đang đợi” V nói với N là chờ em 10-15’, sau đó V gọi điện cho Quách Thị H và nói lên nhà nghỉ G bán dâm cho khách, nhận được điện thoại của V, do không có xe nên H nhờ người phụ nữ không biết tên chở lên nhà nghỉ G. Đến nhà nghỉ G, H được N đưa cho 01 bao cao su và được N hướng dẫn lên phòng 203 để bán dâm. Đối với Bùi Thị T do V nhờ đi đón H, khi đến nhà nghỉ gặp N, N nghĩ là gái bán dâm do V điều đến, nên hỏi đến đi khách à, T hiểu là có khách muốn mua dâm, vì đang cần tiền nên T đồng ý, N đưa cho T 01 bao cao su và hướng dẫn lên phòng 204 để bán dâm. Đến khoảng 21h25’ cùng ngày, nhận được tin báo của quần chúng, Công an huyện S đã tiến hành kiểm tra và bắt quả tang.
Đỗ Thị N sau đó đã đến Công an đầu thú, Trương Văn V bỏ trốn, ngày 02/11/2017 đã đến Công an huyện S đầu thú.
Tại bản án số: 14/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của Toà án nhân dân huyện S:
Áp dụng: khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Trương Văn V 09 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 02/11/2017 đến ngày 05/11/2017).
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên phạt Đỗ Thị N 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “chứa mại dâm”, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 14/3/2019, Trương Văn V kháng cáo với nội dung: Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo.
Tại phiên tòa bị cáo cho rằng không phạm tội vì không gọi điện thoại cho Quách Thị H để đến nhà nghỉ G bán dâm, Đỗ Thị N cũng không gọi điện cho bị cáo. Trong quá trình điều tra, Điều tra viên Đặng K hướng dẫn cho bị cáo nhận tội. H nữa ngày 28/10/2017, vợ bị cáo nghe điện thoại còn bị cáo đi lái taxi không có nhà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được công bố tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm Trương Văn V cho rằng tối ngày 28/10/2017, bị cáo không gọi điện cho Quách Thị H lên nhà nghỉ G bán dâm, Đỗ Thị N cũng không gọi điện cho bị cáo: Hội đồng xét xử căn cứ lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra (BL 110-129), lời khai Quách Thị H tại giai đoan điều tra (BL 51- 56), của Đỗ Thị N tại giai đoạn điều tra (BL83-91,BL 97-104) cũng như tại phiên tòa sơ thẩm ngày 07/3/2019 có căn cứ xác định: Khoảng 21h ngày 28/10/2017, khi Đỗ Thị N gọi điện cho Trương Văn V về việc cho gái đến nhà nghỉ G bán dâm, V đã gọi điện cho Quách Thị H với nội dung đến nhà nghỉ G bán dâm. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa ông Đỗ Xuân K trình bày: Khoảng 17h ngày 02/11/2017, Trương Văn V đã tự nguyện đến Cơ quan Công an nộp đơn đầu thú, Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản tiếp nhận người đầu thú theo đúng quy định. Việc làm của Trương Văn V là hoàn toàn tự nguyện, không bị mớm, ép cung, trong quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm Trương Văn V cho rằng tối ngày 28/10/2017 không gọi điện cho Quách Thị H đến nhà nghỉ G bán dâm là không có căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm xét xử Trương Văn V tội “Môi giới mại dâm” là đúng người, đúng tội có căn cứ pháp luật.
[2] Khi quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết: thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội ra đầu thú - là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trương Văn V 09 tháng tù là có căn cứ pháp luật, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo không có căn cứ nên không được chấp nhận, như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa là có căn cứ.
[3] Về án phí: Trương Văn V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của Toà án nhân dân huyện S.
* Áp dụng: khoản 1 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14; khoản 2 mục I phần A danh mục án phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
* Xử phạt: Trương Văn V 09 (chín) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian đã tạm giữ 03 ngày).
* Án phí: Trương Văn V phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 141/2019/HS-PT ngày 14/06/2019 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 141/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về