Bản án 140/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỐT NỐT - THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 140/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt - thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 141/2020/HSST ngày 04 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ đối với bị cáo:

Lê Văn L (Ốc) – sinh năm: 1994;

Nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, thành phố Cần Thơ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông: Lê Văn T - sinh năm: 1969 (sống) và bà: Lê Thị Mỹ C – sinh năm: 1968 (sống); Vợ: Nguyễn Thị Lan A – sinh năm: 1994; Có 01 người con tên Lê Thái Minh H – sinh năm: 2014; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 14/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/5/2019; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2020 cho đến nay.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Lê Ngọc P (Ly) – sinh năm: 1999 (Có mặt) Địa chỉ: khu vực D, phường E, quận F, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo lời khai của bị cáo Lê Văn L thì vào khoảng 19 giờ ngày 11/9/2020, để có ma túy sử dụng L đón xe honda khách đi từ nhà đến khu vực phường Thạnh Hòa, quận Thốt Nốt, để gặp người 01 thanh niên tên MS(không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua ma túy về sử dụng nhưng khi đến nhà MSthì không gặp được MSmà L gặp 01 người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) độ khoảng 30 tuổi, người này hỏi L đi đâu thì L trả lời đến gặp MSđể mua ma túy, người thanh niên này hỏi lại L là mua bao nhiêu thì L nói mua 4.000.000đồng. Sau đó, người thanh niên đi vào trong nhà khoảng 05 phút sau đem ra đưa cho L 01 gói thuốc lá hiệu Jet, (bên trong có chứa 01 gói nilon không màu được nẹp một đầu và 04 gói nilon được hàn kín, tất cả 05 gói đều có chứa ma túy bên trong), L trả cho người thanh niên 4.000.000 đồng thì người này đưa thêm cho L 01 gói nilon hàn kín bên trong có chứa ma túy và 01 cây cân tiểu ly. Khi đã mua được ma túy, L để 01 gói ma túy mà người thanh niên đưa cho thêm vào bên trong ốp lưng điện thoại di động hiệu OPPO rồi cất vào trong túi quần phía bên trái đang mặc, còn số ma túy bên trong gói thuốc lá hiệu Jet cùng 01 cân tiểu ly thì bỏ vào trong 01 cái bọc nilon màu đen rồi L cầm trên tay, đón xe Honda khách đi đến nhà người bạn gái tên Nguyễn Lê Ngọc P ở phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, để chơi. Khi đến nhà P, L để bọc nilon màu đen bên trong có chứa 05 gói ma túy ở trên kệ dép trước nhà P, rồi vào bên trong nhà ngồi nói chuyện chơi với P được khoảng hơn hai tiếng đồng hồ thì P nói tới giờ đi làm nên L nói với P là cho L quá giang đi xuống khu vực phường Thuận Hưng, để gặp 01 người chị hỏi mượn tiền tiêu xài cá nhân, thì P đồng ý. L đi ra lấy bọc nilon màu đen có chứa 05 gói ma túy treo vào cổ xe môtô biển số 61C1-152.48 của P rồi điều khiển xe chở P chạy xuống khu vực phường Thuận Hưng.

Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi L đang điều khiển xe chở P chạy đến khu vực Tân Phước 1, phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, thì bị lực lượng Chức năng phát hiện khám xét khẩn cấp người và phương tiện thu giữ, tang vật gồm:

- 01 gói nilon không màu, được nẹp một đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn cùng 04 gói nilon được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể rắn, được đựng trong 01 gói thuốc lá hiệu Jet (bị cáo xác định là ma túy của bị cáo mua);

- 01 gói nilon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể rắn, thu trong ốp lưng điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, trong túi quần bên trái L đang mặc (bị cáo xác định là ma túy của bị cáo);

- 01 xe môtô biển số 61C1-152.48 (bị cáo khai của Nguyễn Lê Ngọc P);

- 01 cây cân tiểu ly (bị cáo khai của người bán ma túy đưa cho bị cáo);

- 01 nỏ thuỷ tinh (của bị cáo);

- 01 ống hút nhựa (của bị cáo);

- 01 cây kéo bằng kim loại (của bị cáo);

- 01 điện thoại hiệu hiệu OPPO màu đỏ đen (của bị cáo, có sử dụng vào việc liên hệ rủ bạn sử dụng ma túy ngày 11/9/2020 nên đồng ý tịch thu, không xin nhận lại);

- Tiền Việt Nam là 300.000 đồng (của bị cáo sử dụng tiêu xài cá nhân).

Quá trình điều tra L khai nhận, ngoài lần bị bắt ra thì trước đó L đã 02 lần mua ma túy của MSvề để sử dụng cho bản thân, lần thứ nhất cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần, lần thứ hai cách ngày bị bắt khoảng 03 ngày.

Tại Kết luận giám định số 382/KL-PC09(Hóa) ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Cần Thơ, kết luận:

+ Gói 1: Tinh thể không màu trong gói nilon (kí hiệu M1A) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 8,1465 gam và 04 gói nilon (kí hiệu M1B) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 2,0273 gam;

+ Gói 2: Tinh thể không màu trong gói nilon (kí hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3963 gam.

Tổng 06 gói ma túy có khối lượng 10,5701gam, loại Methamphetamine.

Đối với chiếc xe môtô biển số 61C1-152.48 quá trình điều tra, thì người đứng tên trong giấy đăng ký xe là chị Nguyễn Xuân H, sinh năm 1993 ngụ số 30/8 khu phố Bình Phước B, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương nhưng hiện nay chị H không có mặt tại địa phương nên chưa thể tiến hành ghi lời khai làm rõ được. Còn Nguyễn Lê Ngọc P, trình bày đã mua chiếc xe môtô trên của 01 người không rõ họ tên, địa chỉ với giá 15.000.000 đồng tại Bình Dương cách nay đã hơn 03 năm để làm phương tiện đi lại.

Tại cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 02/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thốt Nốt - thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố, không bổ sung gì thêm, đồng thời đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên xử: Bị cáo Lê Văn L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng: Điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 10 năm đến 11 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn cho bị cáo do nghề nghiệp không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong số 382G1/KL-PC09 và 382G2/KL-PC09 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ có trọng lượng Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 cây cân tiểu ly; 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa và 01 cây kéo bằng kim loại;

- Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ đen do liên quan đến việc phạm tội;

- Đề nghị trả lại cho bị cáo Lê Văn L số tiền 300.000đồng do không liên quan đến việc phạm tội;

- Đối với 01 xe mô tô biển số 61C1-152.48 đề nghị tiếp tục giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra làm rõ xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với người thanh niên tên MSvà người thanh niên đã bán ma túy cho L, do L khai không biết rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất với cáo trạng và đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo ăn năn hối cái, kính xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo xin hứa không tái phạm để sớm được về lo gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an quận Thốt Nốt, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thốt Nốt, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Trong điều tra và qua thẩm tra, đối chất tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp nhau, phù hợp với các chứng cứ như các biên bản về hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, v.v… Như vậy, có cơ sở xác định bị cáo Lê Văn L là đối tượng nghiện ma túy, theo lời khai của bị cáo đã nhiều lần mua ma túy để sử dụng và vào khoảng 19 giờ ngày 11/9/2020, bị cáo đã gặp một người thanh niên (không rõ họ tên địa chỉ) để mua 4.000.000đồng ma túy, người này đưa cho bị cáo L 01 gói thuốc lá hiệu Jet, (bên trong có chứa 01 gói nilon không màu được nẹp một đầu và 04 gói nilon được hàn kín, tất cả 05 gói đều có chứa ma túy bên trong), ngoài ra còn đưa thêm cho L 01 gói nilon hàn kín bên trong có chứa ma túy và 01 cây cân tiểu ly. Sau khi mua ma túy L tiếp tục thuê xe Honda khách đến nhà người bạn gái tên Nguyễn Lê Ngọc P ở Phường Trung Kiên chơi đến 22 giờ 30 phút L nhờ P cho đi nhờ xe môtô đến phường Thuận Hưng và L điều khiển xe môtô biển số 61C1-152.48 của P chở P chạy đến khu vực Tân Phước 1, phường Thuận Hưng quận Thốt Nốt thì bị lực lượng chức năng kiểm tra bắt quả tang L đang vận chuyển ma túy. Tại kết luận giám định số 382/KL-PC09 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nilon gửi giám định là ma túy, tổng khối lượng 10,5701 gam, loại Methamphetamine. Hành vi do bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy và trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự, việc đưa ra truy tố và xét xử bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Xét bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có đầy đủ sức khỏe để nhận thức và điều khiển hành vi của minh, hơn nữa bị cáo đã bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa được xóa án tích), bị cáo đã nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo gây ra, lẽ ra bị cáo phải khắc phục sửa sai nhưng bị cáo vẫn xem thường pháp luật mua ma túy và vận chuyển trái phép chất ma túy để sử dụng. Sử dụng ma túy không những gây nguy hại đến bản thân người sử dụng mà còn tác động xấu đến xã hội, nhất là trong tình hình hiện nay có nhiều người nghiện ma túy và tội phạm về ma túy ngày càng phổ biến. Tác hại của chất ma tuý không chỉ gây ra sự nghiện ngập, ảnh hưởng đến sức khỏe, tiền bạc mà còn hủy hoại hạnh phúc gia đình, làm băng hoại thế hệ trẻ, nguy hiểm hơn là nguy cơ dẫn đến các tội phạm khác vì để có đủ tiền mua ma túy sử dụng thỏa mãn cơn nghiện, không ít người đã lâm vào con đường phạm pháp như trộm cắp, cướp giật, thậm chí là giết người. Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội nên bị cáo phải gánh chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy phải có hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình xét thấy trong điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải; vì vậy Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 250 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo L, không có nghề nghiệp ổn định, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo là có cơ sở.

[4] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác: Theo như nhận định và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Bị cáo Lê Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Đối với đối tượng tên MSvà người thanh niên có hành vi bán ma túy cho bị cáo do chưa tiến hành làm việc được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ nếu có cơ sở xem xét xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên xử: Bị cáo Lê Văn L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lê Văn L 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 11/9/2020.

Hình phạt bổ sung: Miễn cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong số 382G1/KL-PC09 và 382G2/KL- PC09 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ có trọng lượng Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 cây cân tiểu ly; 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa và 01 cây kéo bằng kim loại;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO màu đỏ đen;

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn L số tiền 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng);

- Đối với 01 xe mô tô biển số 61C1-152.48 giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thốt Nốt làm rõ xử lý theo quy định pháp luật.

(Vật chứng tạm giữ hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thốt Nốt theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thốt Nốt với Chi cục thi hành án dân sự quận Thốt Nốt).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội .

Bị cáo Lê Văn L phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thốt Nốt - thành phố Cần Thơ.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 140/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:140/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thốt Nốt - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;