Bản án 140/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 140/2019/HS-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 109/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Phm Hữu T, sinh năm 1992 tại tỉnh Cà Mau; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện tại: Khu phố P, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông Phạm Văn C, sinh năm 1951 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1958; có 06 chị em, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất là bị cáo; có 01 con, sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 01/4/2019 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 01/4/2019, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp cùng Công an phường T tiến hành kiểm tra hành chính phòng số 2, quán cà phê T thuộc khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương phát hiện Phạm Hữu T và Nguyễn Văn Minh Đ (sinh năm 1996, địa chỉ thường trú: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang) đang ngồi trong phòng, trên mặt bàn phía trước vị trí T và Đ ngồi (cách khoảng 40cm) có 01 (một) gói thuốc hiệu Jet màu trắng bên ngoài dán băng keo đen bên trong có 01 (một) bịch nylon miệng kéo dính chứa chất màu trắng dạng tinh thể. T khai nhận tinh thể màu trắng trong bịch nylon miệng kéo dính là ma túy đá của T vừa mới mua được nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và niêm phong thu giữ vật chứng cùng 01 (một) điện thoại di dộng hiệu Vivo, sim số 0933.965.745.

Quá trình điều tra, Phạm Hữu T khai nhận: Phạm Hữu T và Nguyễn Văn Minh Đ là bạn bè quen biết. Khoảng 17 giờ ngày 01/4/2019 T hẹn Đ đến quán cà phê T uống nước. Sau đó, T điều khiển xe môtô (không rõ biển số) chở bạn gái tên Trần Thị Phương T (sinh năm 1989, hộ khẩu thường trú: Thị xã N, tỉnh Sóc Trăng) đi mua đồ dùng cá nhân. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T chở T đến quán cà phê T, do T làm nhân viên tại quán nên vào quầy lễ tân bán nước, còn T vào phòng số 02 của quán uống nước. Lúc này, T có nhu cầu sử dụng ma túy nên T sử dụng điện thoại di dộng hiệu Vivo, sim số 0933.965.745 gọi cho một người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) ma túy đá và hẹn T đến quán cà phê T giao ma túy cho T, T đồng ý. Khoảng 30 phút sau, T điều khiển xe môtô (không rõ biển số) đến quán cà phê T, vào phòng số 02 đưa cho T một gói thuốc hiệu Jet màu trắng bên trong có một bịch ma túy đá, T đưa cho T 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng), rồi T ra về. T để gói thuốc hiệu Jet bên trong chứa bịch ma túy đá trên mặt bàn trong phòng, rồi đi ra khỏi phòng thì nhìn thấy Đ đang ngồi trong chòi phía trước quán, T kêu Đ vào phòng số 02 ngồi nói chuyện. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày 01/4/2019, T và Đ đang ngồi trong phòng, trên mặt bàn phía trước vị trí T và Đ ngồi có một gói thuốc hiệu Jet màu trắng bên trong chứa một bịch ma túy đá thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Nguyễn Văn Minh Đ khai nhận: Đ sử dụng ma túy từ tháng 8/2018. Khoảng 17 giờ ngày 01/4/2019, T rủ Đ đến quán cà phê T uống nước. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Đ đến quán nhưng không thấy T nên Đ vào ngồi uống nước tại chòi phía trước quán. Khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, T từ phòng số 02 phía sau quán kêu Đ vào phòng ngồi nói chuyện, lúc này Đ mới biết T có mặt trong quán. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì lực lượng Công an phát hiện bắt giữ T. Đ không biết T cất giấu bịch ma túy trong gói thuốc hiệu Jet.

Theo Kết luận giám định số 281/MT-PC09 ngày 14/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,0243 gam. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng 0,9233 gam.

Theo Biên bản xét nghiệm chất ma túy ngày 02/4/2019 của Trạm Y tế phường T đối với Phạm Hữu T và Nguyễn Văn Minh Đ, kết quả: Dương tính với ma túy.

Ngày 23/5/2019, Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 83/QĐ-XPVPHC xử phạt Nguyễn Văn Minh Đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 130/CT-VKSBC ngày 16/7/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Hữu T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Hữu T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Hữu T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 281/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương chứa 0,9233 gam Methamphetamine; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng; 01 sim số 0933965745; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo (bị vỡ màn hình).

Bị cáo Phạm Hữu T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, nội dung bản Cáo trạng số 130/CT-VKSBC ngày 16/7/2019 và Kết luận giám định số 281/MT- PC09 ngày 10/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội:

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Hữu T đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Khong 21 giờ 30 phút ngày 01/4/2019 tại phòng số 2, quán cà phê T thuộc khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, Phạm Hữu T có hành vi tàng trữ trái phép một bịch ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,0243 gam nhằm mục đích để sử dụng. Do đó, hành vi mà bị cáo Phạm Hữu T đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3 Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Việc mua, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, cướp giật, đặc biệt là nguy cơ lây nhiễm căn bệnh HIV/AIDS qua con đường tiêm chích ma túy. Loại ma túy mà bị cáo tàng trữ là Methamphetamine, đây là loại độc dược gây nghiện, có nhiều tác hại cho sức khỏe con người. Hiện nay, tệ nạn hút chích ma túy đang là gánh nặng cho gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước không ngừng tuyên truyền giáo dục và vận động toàn xã hội ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy thì vẫn còn những người vì mục đích tư lợi đã lén lút họat động tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, bất chấp pháp luật và hậu quả gây ra cho xã hội.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khung hình phạt nên chỉ xét xử ở khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo thuộc trường hợp được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đi chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đi với một Bì thư dán kín số 281/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,9233 gam Methamphetamine: Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành. Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tịch thu, tiêu hủy.

Đi với 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng và sim số 0933965745: Đây là công cụ bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội, không có giá trị sử dụng nên căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 điện thoại di động hiệu Vivo (bị vỡ màn hình): Đây là phương tiện, công cụ bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội nên căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[5] Đối với Nguyễn Văn Minh Đ (sinh năm 1996, địa chỉ thường trú: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang): Không có căn cứ chứng minh Đ có liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo T nên không đặt ra xem xét xử lý hình sự đối với Đ. Tuy nhiên, Đ đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên ngày 23/5/2019, Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 83/QĐ-XPVPHC xử phạt Nguyễn Văn Minh Đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Việc xử phạt hành chính này là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

[6] Đối với một người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cho T, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Bến Cát đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Hữu T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 01/4/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 281/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,9233 gam Methamphetamine; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng; 01 sim số 0933965745;

Tch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo (bị vỡ màn hình).

(Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/7/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục Thi hành án dân thị xã Bến Cát) 3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 140/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:140/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;