TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 140/2018/HS-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/2018/TLST- HS ngày 14 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Hoàng Văn L, sinh ngày 15/01/1979 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn C và bà Lường Thị K; có vợ là Vì Thị V và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/3/2018 đến nay. Có mặt.
2. Họ và tên: Hà Văn B, sinh ngày 04/12/1991 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu 1, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hóa (Học vấn): 0/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn X và bà Vũ Thị T; có vợ là Vì Thị Thúy N và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/3/2018 đến nay. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Vì Thị Thúy N, sinh năm 1999; nơi cư trú: Tiểu khu 1, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 19/3/2018 Hoàng Văn L gặp Hà Văn B ở Tiểu khu 1, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. L bảo B biết chỗ nào bán hồng phiến (Methamphetamine) thì dẫn L đi mua về sử dụng chung, B đồng ý và điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Waveα biển kiểm soát xxx chở L đi đến cầu sắt thuộc địa phận bản P, xã L, huyện M thì gặp một người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không quen biết, B dừng xe hỏi người phụ nữ đó có Methamphetamine bán không. Sau khi nghe B và người phụ nữ đó trao đổi thì L ngồi phía sau xe lấy 200.000 đồng đưa cho B để mua Methamphetamine, người phụ nữ đó nhận tiền từ B và đưa cho B 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng 04 viên Methamphetamine. B cầm gói Methamphetamine trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy chở L đi về tìm nơi sử dụng. Khi L và B đi đến Km103 QL43 thuộc địa phận Tiểu khu 1, xã C, huyện M thì gặp tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập phối hợp với Phòng phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Văn L và Hà Văn B. Thu giữ trong tay B 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng 04 viên Methamphetamine. Tạm giữ của Hà Văn B 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Waveα màu trắng BKS xxx. Tạm giữ của Hoàng Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 bên trong có 01 sim số Viettel và 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Văn L.
Ngày 20/3/2018, Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập - Bộ đội biên phòng tỉnh Sơn La đã quyết định khởi tố vụ án, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã quyết định chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu.
Ngày 20/3/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng PC 54 Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, kiểm đếm số lượng, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định số vật chứng nghi là Methamphetamine thu giữ của Hoàng Văn L và Hà Văn B được 04 viên, cân tách bì được khối lượng 0,37 gam. Lấy 02 viên có khối lượng 0,18 gam làm mẫu gửi giám định, xác định có phải là chất ma túy không? Loại chất ma túy gì? Khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu, mẫu ký hiệu H.
Tại Kết luận giám định số 415 ngày 27/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu H là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,37 gam, loại chất Methamphetamine.
Đối với người phụ nữ dân tộc Thái đã bán Methamphetamine cho Hà Văn B vào ngày 19/3/2018, do bị can không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra và xử lý.
Bản cáo trạng số 97/CT-VKSMC ngày 13/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Hoàng Văn L, Hà Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn L, Hà Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:
1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn L từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 2, 3 Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn B từ 15 tháng đến 18 tháng tù.
Phạt bổ sung đối với bị cáo từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ vụ Hà Văn B và Hoàng Văn L. Bắt ngày 19/3/2018 (0,19 gam các viên nén màu hồng là Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu).
- 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Hoàng Văn L.
- 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Hà Văn B.
Tạm giữ đảm bảo thi hành án đối với Hà Văn B: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α, màu sơn trắng, biển kiểm soát xxx, xe đã qua sử dụng (là tài sản chung của Hà Văn B và chị Vì Thị Thúy N).
Tạm giữ đảm bảo thi hành án về phần án phí đối với Hoàng Văn L: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu đen, kèm 01 sim.
Trả cho bị cáo Hoàng Văn L 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Văn L.
3. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại phiên toà, các bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện, đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện. Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng, kiểm đếm số lượng, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định; lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 19/3/2018, Hoàng Văn L, Hà Văn B đã cùng thực hiện hành vi cất giữ trái phép 04 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 0,37 gam để sử dụng chung. Hành vi của các bị cáo đồng phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 17 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Về nhân thân, các bị cáo phạm tội lần đầu, Hoàng Văn L là đối tượng sử dụng chất ma túy, Hà Văn B là đối tượng nghiện ma túy, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[3] Về vai trò trong đồng phạm: Hoàng Văn L là người khởi xướng và bỏ ra số tiền 200.000 đồng để mua ma túy về sử dụng chung. Hà Văn B là người điều khiển xe máy đưa L cùng đi mua ma túy, trực tiếp hỏi mua và cất giữ ma túy, có vai trò là người thực hành. Xét cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự, quyết định hình phạt phù hợp với vai trò của từng bị cáo trong đồng phạm.
[4] Về hình phạt bổ sung (Phạt tiền): Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy Hoàng Văn L không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền).
Đối với bị cáo Hà Văn B có tài sản chung với chị Vì Thị Thúy N là 01 chiếc xe máy, ngoài ra không có tài sản gì khác, xét cần áp dụng khoản 2, 3 Điều 35; khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự để quyết định mức phạt bổ sung phù hợp với điều kiện tài sản của Hà Văn B.
[5] Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với các vật chứng gồm:
- 01 Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ vụ Hà Văn B và Hoàng Văn L. Bắt ngày 19/3/2018 (0,19 gam các viên nén màu hồng là Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu).
- 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Hoàng Văn L.
- 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Hà Văn B.
Xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với chiếc xe máy Honda Wave α biển kiểm soát xxx đăng ký sở hữu năm 2017, mang tên chủ xe Hà Văn B, là tài sản chung của vợ chồng bị cáo B và chị Nga, chị Nga không biết bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội. Xét cần tạm giữ đảm bảo thi hành án về án phí và tiền phạt đối với Hà Văn B.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 kèm 01 sim (đã được niêm phong) thu giữ của Hoàng Văn L là tài sản của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội. Xét cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án về án phí đối với Hoàng Văn L.
Đối với chứng minh nhân dân số YYY do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 07/8/2007 cho Hoàng Văn L là giấy tờ tùy thân của bị cáo Hoàng Văn L nên cần trả cho bị cáo.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Thời hạn tạm giam của các bị cáo còn trên 45 ngày do đó Hội đồng xét xử không ra Quyết định tạm giam đối với các bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn L, Hà Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 19/3/2018.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 2, 3 Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Hà Văn B 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 19/3/2018.
Phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn B số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).
3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ vụ Hà Văn B và Hoàng Văn L. Bắt ngày 19/3/2018 (0,19 gam các viên nén màu hồng là Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu).
- 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Hoàng Văn L.
- 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Hà Văn B.
Trả cho bị cáo Hoàng Văn L 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Văn L.
Tạm giữ đảm bảo thi hành án về án phí đối với Hoàng Văn L: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu đen, kèm 01 sim (đã niêm phong).
Tạm giữ đảm bảo thi hành án về án phí và tiền phạt đối với Hà Văn B: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α, màu sơn trắng, biển kiểm soát xxx, xe đã qua sử dụng.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Các bị cáo Hoàng Văn L, Hà Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).
Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 140/2018/HS-ST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 140/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về