TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 140/2018/DS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2018/TLST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp đòi lại tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2018/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Châu Thị Kim H, sinh năm 1963; trú tại: Số 25, hẻm 1, đường P, khu phố T, phường S, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Văn C, sinh năm: 1956; trú tại: Số 42, hẻm số 1, đường C, khu phố C, Phường A, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 18-5-2018); có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1964; trú tại: Số 43, đường T, Khu phố E, Phường C, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18-4-2018 và bản tự khai của nguyên đơn bà Châu Thị Kim H cùng các lời khai tại Tòa án của người đại diện nguyên đơn ông Phạm Văn C trình bày:
Trước đây bà Châu Thị Kim H có vụ kiện chia di sản thừa kế của chồng là ông Phan Hồng C, chết năm 2015, bà H có nhờ ông Nguyễn Tấn T giúp tham gia tố tụng trong vụ án chia thừa kế trên tại Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh nên bà H có giao tiền cho ông T năm lần vào các ngày 02-7-2015, 07-7- 2015, 10-7-2015, 20-7-2015 và ngày 06-8-2015 với tổng số tiền là 45.000.000 đồng, hai bên có làm biên nhận vào ngày 22-3-2016 với nội dung ông T nhận tiền của bà H để đóng tiền án phí về việc chia di sản thừa kế của ông Phan Hồng C, nhưng sau khi nhận tiền xong ông T không thực hiện; nhiều lần bà H đòi lại số tiền trên, ông T hẹn ngày 10-4-2018 sẽ trả đủ cho bà H nhưng đến nay không trả. Nay bà H yêu cầu ông T trả số tiền 45.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật.
Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T đã được Tòa án tống đạt các thông báo thụ lý, cung cấp chứng cứ, hòa giải, giao nhận giấy triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên không ghi được ý kiến trình bày. Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh:
- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, tư cách pháp lý và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa sơ thẩm dân sự; người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị Kim H buộc ông Nguyễn Tấn T trả cho bà H số tiền vốn gốc 45.000.000 đồng, đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi và ông T phải chịu tiền án phí theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:
[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Tấn T vắng mặt Tòa án đã tiến hành thủ tục đúng và đầy đủ thủ tục tố tụng để đảm bảo cho việc xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện: Theo bà Châu Thị Kim H khai trước đây bà H có vụ kiện chia di sản thừa kế của chồng là ông Phan Hồng C chết năm 2015, nên có nhờ ông Nguyễn Tấn T giúp tham gia tố tụng trong vụ án thừa kế trên tại Tòa án; sau khi thỏa thuận bà H có giao tiền cho ông T năm lần vào các ngày 02-7-2015, 07-7-2015, 10-7-2015, 20-7-2015 và ngày 06-8-2015 với tổng số tiền là 45.000.000 đồng, đến ngày 22-3-2016 hai bên làm biên nhận với nội dung ông T nhận của bà H số tiền 45.000.000 đồng để đóng án phí về việc chia di sản thừa kế của ông Phan Hồng C, nhưng sau khi nhận tiền xong ông T không thực hiện, bà H đã nhiều lần đòi lại số tiền trên, ông T hẹn ngày 10-4-2018 trả nhưng đến nay không trả. Quá trình giải quyết vụ án bà H yêu cầu ông T trả số tiền 45.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật; tại phiên tòa ông C là người đại diện của bà H trình bày xin rút lại yêu cầu tính lãi. Ông T đã được Tòa án tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng và triệu tập đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng ông T không đến và cũng không trình bày ý kiến.
[3] Xét về chứng cứ: Căn cứ vào biên nhận ngày 22-3-2016 (BL số 23, 24) thể hiện ông Nguyễn Tấn T có nhận của bà Châu Thị Kim H số tiền 45.000.000 đồng, biên nhận do ông T ký tên, biên nhận ngày 22-3-2016 bản photo bên dưới có ghi “hẹn ngày 10-4-2018 trả đủ cho chị H (45.000.000đ)” ký tên ghi họ tên người nhận Nguyễn Tấn T. Tại kết luận giám định số: 1223/KL- KTHS ngày 23-10-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận chữ viết mang tên Nguyễn Tấn T trên tài liệu giám định (ký hiệu A01; A02) với chữ viết Nguyễn Tấn T trên tài liệu mẫu (ký hiệu M01 đến M04) do cùng một người viết ra; không có đủ cơ sở kết luận chữ ký mang tên Nguyễn Tấn T trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A01; A02) với chữ ký của Nguyễn Tấn T trên tài liệu mẫu (ký hiệu M01 đến M04) có phải do cùng một người ký ra hay không; do đó có cơ sở xác định việc ông T có nhận tiền của bà H trong biên nhận ngày 22-3-2016 là có thật.
[4] Xét đối với yêu cầu tính lãi: Căn cứ vào biên nhận ngày 22-3-2016 thể hiện ông Nguyễn Tấn T có nhận của bà Châu Thị Kim H số tiền 45.000.000 đồng hẹn ngày 10-4-2018 trả nhưng đến nay không trả; tại phiên tòa ông C là người đại diện cho bà H trình bày do số tiền ông T nhận của bà H là tiền chi phí để thực hiện thủ tục ủy quyền nên xin rút lại yêu cầu tính lãi. Do đó đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu tính lãi.
[5] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 166 của Bộ luật Dân sự, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị Kim H buộc ông Nguyễn Tấn T trả cho bà Châu số tiền vốn gốc 45.000.000 đồng; đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi và ông T phải chịu tiền án phí theo luật định. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những nhận định trên có cơ sở Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Châu Thị Kim H buộc ông Nguyễn Tấn T có trách nhiệm trả cho bà H số tiền 45.000.000 đồng.
[6] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; ông Nguyễn Tấn T phải chịu 2.250.000 đồng tiền án phí sơ thẩm dân sự; bà Châu Thị Kim H không phải chịu án phí nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.125.000 đồng theo biên lai thu số: 0005385 ngày 23-4-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
[7] Về chi phí giám định: Bà H tự nguyện chịu 2.040.000 đồng, bà H đã nộp đủ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 166; Điều 280; Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Châu Thị Kim H buộc ông Nguyễn Tấn T có trách nhiệm trả bà Châu Thị Kim H số tiền 45.000.000 đồng.
2. Án phí: Ông Nguyễn Tấn T phải chịu 2.250.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho bà Châu Thị Kim H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.125.000 đồng theo biên lai thu số: 0005385 ngày 23-4-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
3. Chi phí giám định: Bà H tự nguyện chịu 2.040.000 đồng, bà H đã nộp đủ.
4. Kể từ ngày bà Châu Thị Kim H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Nguyễn Tấn T chưa thi hành số tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải trả cho bà H số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
6. Báo cho các đương sự biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Riêng đối các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại UBND xã (phường) nơi cư trú./.
Bản án 140/2018/DS-ST ngày 19/11/2018 về tranh chấp đòi lại tài sản
Số hiệu: | 140/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về