Bản án 139/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 139/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 151/2020/HSST ngày 19 tháng 06 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2020/QĐXX-HS ngày 03 tháng 7 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN TUẤN V (tên gọi khác: Đ), sinh ngày 26-12-2002 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký HKTT: Khu phố A, thị trấn B, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: 170 đường H, Phường K, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Cha: Nguyễn Hiếu Ngh (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm:1981; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị tạm giữ từ ngày 27-10-2019, chuyển tạm giam từ ngày 30-10-2019 cho đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa).

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Tuấn V: Bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1981; Nơi cư trú: 811/12 đường B, Phường M, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa);

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn V: Bà Đinh Thị Quý – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa).

2. NGUYỄN THÀNH D, sinh ngày 13-4-2001 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký HKTT: 58/6 đường P, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Chỗ ở: Không cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Cha: Nguyễn Công M, sinh năm 1963; Mẹ: Võ Thị Huyền H, sinh năm:1967; Tiền án, tiền sự: Không;

Tiền sự: Tại quyết định số 321/QĐ ngày 13-12-2019, TAND thành phố Vũng Tàu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở tư vấn và điều trị nghiện ma túy tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thời hạn 20 tháng đối.

Bị cáo hiện đang chấp hành quyết định xử phạt hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở tư vấn và điều trị nghiện ma túy tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Số 10 đường T, Phường M, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Cháu Đinh Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 30-01-2006.

Người giám hộ của cháu Đinh Nguyễn Quỳnh A: Bà Trần Thị Thu H (vắng mặt tại phiên tòa).

Cùng nơi cư trú: Tổ C, thị trấn D, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt tại phiên tòa);

2. Anh Phạm Thành Tr, sinh năm 1987; Nơi cư trú: 167/34 đường L, Phường B, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt tại phiên tòa);

3. Anh Nguyễn Cao C, sinh năm 1981; Nơi cư trú: 196/2A đường L, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt tại phiên tòa);

4. Bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm: 1981; Nơi cư trú: Khu A, thị trấn B, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tuấn V và Nguyễn Thành D có mối quan hệ bạn bè. Do cần tiền tiêu xài, tối ngày 25-10-2019, V điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha loại Sirius (có biển số 72D1-020.09 nhưng biển số đã được V tháo ra giấu vào cốp xe) đến phòng trọ của D để rủ D đi tìm tài sản sơ hở nhằm cướp giật, D đồng ý. Khoảng hơn 20 giờ cùng ngày, D điều khiển xe máy trên chở V đi trên các tuyến đường thuộc TP. Vũng Tàu, khi đi đến khu vực gần quán Karaoke 88 trên đường Tr, thuộc Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì phát hiện một người thanh niên (không rõ lai lịch) đang điều khiển xe đạp điện, trên tay cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MI A2 Lite màu vàng đồng. D và V thống nhất theo sát người thanh niên này, khi đến trước số nhà 128 đường Tr, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, quan sát xung quanh thấy vắng người qua lại, D cho xe máy áp sát người thanh niên, V ngồi sau dùng tay giật chiếc điện thoại, D tăng ga bỏ chạy. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 26-10-2019, V cùng D mang chiếc điện thoại cướp giật được đến tiệm cầm đồ Phương A 8 tại địa chỉ 248B đường Tr, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cầm cố cho anh Phạm Thành Tr - sinh năm: 1987; cư trú: 167/34 đường L, Phường B, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được 600.000 đ (sáu trăm ngàn đồng). V dùng toàn bộ số tiền này để trả nợ, không chia cho D.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số: 191/KL - PTCKH ngày 24-12-2019 Hội đồng định giá trong TTHS- UBND thành phố Vũng Tàu từ chối định giá chiếc điện thoại nhãn hiệu MI A2 Lite (China; màu vàng đồng; Imel1: 868137038020591; Imel2: 868137038020609) (BL: 34-37).

Cơ quan Công an tiến hành khảo sát giá tại cửa hàng điện thoại D (chủ cửa hàng Lê Duy Th; sinh năm: 1982; cư trú: 123 đường B, Phường B, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) cho biết: chiếc điện thoại nhãn hiệu MI A2 Lite (china; màu vàng đồng) trị giá khoảng 1.000.000đ (một triệu đồng).

Quá trình điều tra còn xác định, trong các ngày 23-10-2019 và ngày 26-10- 2019, Vũ còn thực hiện hai vụ cướp giật tài sản khác. Cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 19 giờ ngày 23-10-2019, V điều khiển xe máy hiệu Sirius biển số 72D1-020.09 chở Lương Hồng T - sinh năm 1988, trú tại: Khóm A, Phường B, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu lưu thông trên các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố Vũng Tàu để tìm tài sản sơ hở. Khi đi đến địa chỉ 212 đường N, phường T, TP. Vũng Tàu, cả hai nhìn thấy chị Nguyễn Thị Lệ H - sinh năm 1988, trú tại số 10 đường Tr, Phường M, TP. Vũng Tàu đang ngồi ăn tối tại vỉa hè, ngay trên bàn nơi chị H ngồi có để một chiếc ví da màu kem, nên V và T thống nhất chiếm đoạt tài sản này. V cho xe áp sát vị trí chị H đang ngồi, T ngồi sau dùng tay giật chiếc ví của chị H rồi cả hai tăng ga bỏ chạy. Sau khi giật được chiếc ví, V và T đem về phòng trọ của V tại số 170 đường H, Phường K, TP. Vũng Tàu kiểm tra bên trong có 300.000 đồng, 01 tờ tiền Úc mệnh giá 10AUD, 01 tờ tiền Campuchia mệnh giá 100Riel, 01 tờ tiền Thái L (không rõ mệnh giá) và một số giấy tờ cá nhân gồm: giấy phép lái xe, giấy chứng minh nhân dân, thẻ bảo hiểm, giấy đăng ký xe mô tô và một số thẻ ngân hàng, V và T lấy số tiền 300.000 đồng và những tờ tiền ngoại tệ, vứt bỏ các giấy tờ và chiếc ví lại phòng trọ. Cả hai sử dụng hết 300.000 đồng, riêng các tờ tiền ngoại tệ thì Vũ giữ tờ tiền Campuchia, tờ tiền Úc và Thái Lan do T giữ (BL: 131-147).

Theo tỉ giá Hối đoái ngày 30-11-2019 của ngân hàng Sacombank chi nhánh Vũng Tàu xác định 10AUD = 158.660 VNĐ, 100Riel = 570,98 VNĐ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 175/KL ngày 28-11-2019: Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự UBND thành phố Vũng Tàu từ chối định giá chiếc ví da màu kem do không có nhãn hiệu (BL: 31-33).

Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 26-10-2019, V điều khiển xe máy Yamaha loại Sirius biển kiểm soát 72D1 – 020.09 đến nhà nghỉ B trên đường N để chở Đinh Nguyễn Quỳnh A - sinh ngày 30-01-2006, trú tại tổ A, thị trấn B, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng đi chơi. Khi đi đến trước cổng trường K thuộc Phường C, thành phố Vũng Tàu, V phát hiện một người phụ nữ đang ngồi trên xe máy, trên tay có cầm chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S8+, nên đã yêu cầu Quỳnh A úp mặt xuống lưng V, V cho xe ép sát bên phải người phụ nữ rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại. Sau khi giật được tài sản, cả hai cùng nhau đi chơi, sau đó V chở Quỳnh A quay lại nhà nghỉ trên. Sáng ngày 27-10-2019, V đem chiếc điện thoại trên đến địa chỉ 193 đường N, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhờ anh Nguyễn Cao C - sinh năm: 1981, cư trú: 196/2A đường L, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu sửa màn hình và có ý định khi nào sửa xong sẽ bán nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện, bắt giữ và thu giữ tang vật.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số: 191/KL - PTCKH ngày 24-12-2019 Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự UBND thành phố Vũng Tàu từ chối định giá chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung S8+ (số Sê ri: R58J441SH3V; Imel1: 354359083109548; Imel2: 354360083109546).

Cơ quan Công an tiến hành khảo sát giá tại cửa hàng điện thoại D (chủ cửa hàng Lê Duy Th; sinh năm: 1982; cư trú: 123 đường B, Phường K, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) cho biết: chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung S8+ trị giá khoảng 1.500.000 đ (một triệu, năm trăm ngàn đồng).

Tại cơ quan Công an, Vũ và D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

- Việc thu giữ tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu thu giữ tại phòng trọ của V ở địa chỉ 170 đường H, Phường K, TP. Vũng Tàu 01 chiếc ví da màu kem bên trong có 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ Vietinbank, 01 thẻ VPBank, 01 thẻ Sacombank, 01 thẻ sinh viên, 01 CMND, 01 thẻ Fecredit, 02 thẻ bảo hiểm y tế, đều mang tên Nguyễn Thị Lệ H; 01 giấy đăng ký mô tô xe máy, 01 chứng nhận bảo hiểm xe máy mang tên Nguyễn Văn H; V tự nguyện giao nộp 01 tờ tiền Campuchia mệnh giá 100 Riel; đây là toàn bộ giấy tờ cá nhân của chị H mà Vđã cướp giật được. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại toàn bộ tài sản trên cho chị H.

Đối với 01 xe máy Sirius màu xám đen biển số 72D1-020.09 do Vũ giao nộp, qua xác minh xác định chiếc xe máy do chị Trần Thị Nhân Á - sinh năm 1984, trú tại tổ K, phường P, TP Bà Rịa đứng tên chủ sở hữu, chị Á đã bán xe này cho một người không rõ lai lịch. Đầu năm 2019, anh Lê Văn Ph - sinh năm 1970, trú tại 422 đường B, phường N, TP. Vũng Tàu mua lại chiếc xe trên từ người thanh niên không rõ lai lịch, đến tháng 10/2019, anh Ph bán lại chiếc xe cho chị Nguyễn Thị Kim Th - sinh năm 1981, chỗ ở: khu A, thị trấn B, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai - mẹ ruột của V; chị Th cho V mượn xe để đi làm, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe này cho chị Th.

Anh Nguyễn Cao C - chủ tiệm điện thoại có địa chỉ 193 đường N, Phường B, TP Vũng Tàu giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung S8+, đây là tài sản mà V đem đến nhờ anh C sửa chữa; anh Phạm Thành Tr - chủ tiệm cầm đồ P - địa chỉ 248 đường Tr, phường B, TP Vũng Tàu, giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu MI A2 Lite màu vàng đồng, đây là tài sản V đem đến cầm cố cho anh Tr. Hiện các vật chứng này đã chuyển cơ quan Thi hành án dân sự TP Vũng Tàu quản lý.

- Về phần dân sự:

Chị Nguyễn Thị Lệ H đã nhận lại toàn bộ giấy tờ cá nhân và tờ tiền Campuchia, chị H không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 300.000 đồng và 02 tờ ngoại tệ còn lại.

Chị Nguyễn Thị Kim Th đã nhận lại xe và không yêu cầu gì.

Anh Phạm Thành Tr và anh Nguyễn Cao C không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

- Đối với Lương Hồng T, qua xác minh không có mặt tại địa phương, hiện chỉ có V xác định Tcùng tham gia cướp giật tài sản với V, do đó chưa đủ căn cứ khởi tố Lương Hồng T đồng phạm với V về tội “Cướp giật tài sản”, cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm T để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Đối với Đinh Nguyễn Quỳnh A, SN: 30-01-2006, tại thời điểm thực hiện hành vi cướp giật cùng với V, Quỳnh A chưa đủ 14 tuổi nên chưa đủ căn cứ xử lý hình sự đối với Quỳnh A về tội “Cướp giật tài sản”.

- Đối với Phạm Thành Tr và Nguyễn Cao C (đã có hành vi nhận cầm cố và sửa chữa điện thoại cho Nguyễn Tuấn V) và chị Nguyễn Thị Kim Th cho V mượn xe máy 72D1-020.09. Tuy nhiên, anh Tr, anh C đều không biết đây là những tài sản do V cướp giật mà có, chị Th không biết V sử dụng xe máy 72D1-020.09 làm phương tiện đi cướp giật tài sản nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Tr, anh C và chị Th.

- Đối với tờ tiền ngoại tệ Thái Lan do cả bị hại và bị cáo đều không xác định được mệnh giá nên không có cơ sở xử lý Vũ đối với số tiền này.

Ngoài ra, V còn khai nhận đã thực hiện các vụ cướp giật tài sản khác trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Vũng Tàu tiếp tục điều tra xác minh sử lý sau.

Bản cáo trạng số 157/CT-VKS ngày 17-6-2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Tuấn V và Nguyễn Thành D về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điêu 51; điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 91; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù giam;

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s Khoản 1 Điêu 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành D mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung S8+ và 01 điện thoại nhãn hiệu MI A2 Lite màu vàng đồng là những tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt được. Tuy nhiên, do hiện nay không có bị hại, ngày 25-11-2019 Cơ quan CSĐT Công an TP. Vũng Tàu đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn không có người đến nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn V thống nhất quan điểm của kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, về hình phạt, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng một mức án nhẹ hơn so với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát để vừa đủ sức răn đe, giúp bị cáo không tiếp tục lao vào con đường phạm tội, đồng thời vừa thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người chưa thành niên như bị cáo.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiêm sát truy t ố đúng tội danh; các bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo với lời khai của bị hại và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Trong tháng 10/2019, Nguyễn Tuấn V đã thực hiện 03 vụ Cướp giật tài sản trên địa bàn TP Vũng Tàu, trong đó V thực hiện cùng Nguyễn Thành D 01 vụ. Cụ thể:

Vụ thứ 1: Khoảng 19 giờ ngày 23-10-2019, tại 212 đường N, phường T, TP. Vũng Tàu, V cùng Lương Hồng T thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Nguyễn Thị Lệ H 01 ví da màu kem bên trong có 300.000 đồng, 01 tờ tiền Úc mệnh giá 10AUD (tương đương 158.660 VNĐ), 01 tờ tiền Campuchia mệnh giá 100Riel (tương đương 570,98 VNĐ), 01 tờ tiền Thái Lan (không rõ mệnh giá) và một số giấy tờ cá nhân gồm: giấy phép lái xe, giấy chứng minh nhân dân, thẻ bảo hiểm, giấy đăng ký xe mô tô và một số thẻ ngân hàng, tổng trị giá V chiếm đoạt của chị H là 459.230,98 đồng.

Vụ thứ 2: Khoảng hơn 20 giờ ngày 25-10-2019, tại trước số nhà 128 đường Tr, Phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, V cùng D thực hiện hành vi cướp giật một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MI A2 Lite màu vàng đồng, qua khảo sát có trị giá khoảng 1.000.000 đồng của một người thanh niên điều khiển xe đạp.

Vụ thứ 3: Khoảng 19 giờ ngày 26-10-2019, tại khu vực trước cổng trường K thuộc Phường C, thành phố Vũng Tàu, V và Quỳnh A thực hiện hành vi cướp giật một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S8+, qua khảo sát có trị giá khoảng 1.500.000 đồng của một người phụ nữ.

Trong vụ cướp giật tài sản ngày 25-10-2019, cả hai bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, nhưng giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ mà chỉ là đồng phạm giản đơn. Bị cáo D đã điều khiển xe máy ép sát người bị hại, tạo điều kiện cho bị cáo V ngồi sau tiếp cận và giật tài sản, sau đó tăng ga bỏ chạy.

Như vậy, hành vi Nguyễn Tuấn V và Nguyễn Thành D thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại quyền sở hữu tài sản công dân, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần xử phạt với mức án nghiêm theo quy định pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng:

- Bị cáo Nguyễn Thành D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Bị cáo Nguyễn Tuấn V, ngoài vụ cướp giật cùng với D, còn thực hiện 02 vụ cướp giật tài sản vào ngày 23-10-2019 và 26-10-2019 với thủ đoạn tương tự, mỗi vụ đều cấu thành tội phạm, do đó bị cáo V bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở nên” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ:

- Bị cáo Nguyễn Thành D: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khân khai báo , ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điêu 51 Bộ luật Hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

- Bị cáo Nguyễn Tuấn V: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khân khai báo , ăn năn hối cải; đã tự khai nhận về hành vi phạm tội trước đó chưa bị phát hiện; đồng thời là người có hoàn cảnh đặc biệt (mồ côi cha từ khi bị cáo chưa chào đời, mẹ bỏ đi để lại bị cáo cho bà ngoại nuôi, từ nhỏ bị cáo lớn lên thiếu vắng tình yêu thương và giáo dục của cha mẹ). Vì vậy áp dụng điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Tuấn V đã 16 tuổi 09 tháng 27 ngày. Ở độ tuổi này mặc dù bị cáo chưa thành niên nhưng theo quy định của pháp luật, bị cáo đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi lượng hình cần áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự để xem xét cho bị cáo hưởng mức án cho người dưới 18 tuổi phạm tội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung S8+ và 01 điện thoại nhãn hiệu MI A2 Lite màu vàng đồng là những tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt được. Tuy nhiên, do hiện nay không có bị hại, ngày 25-11-2019 Cơ quan CSĐT Công an TP. Vũng Tàu đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn không có người đến nhận nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí : Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Tuấn V (Đ), Nguyễn Thành D phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Căn cứ: Điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điêu 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Tuấn V (Đ): 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 10 năm 2019.

3. Căn cứ: Điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1 Điêu 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Thành D: 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày phải thi hành án.

3. Trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung S8+ và 01 điện thoại nhãn hiệu MI A2 Lite màu vàng đồng.

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 155/BB.THA ngày 18-6-2020.

5. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 về án phí và lệ phí Tòa án: Nguyễn Tuấn V, Nguyễn Thành D, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đông ) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp và người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn Vũ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 139/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:139/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;