Bản án 139/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 139/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 148/2019/HSST ngày 13 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1529/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Thị Diễm T; giới tính: Nữ; sinh ngày 29 tháng 08 năm 1991; tại Thành phố H; nơi ĐKTT: 01 X, Phường Y, Quận Z, Thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; con ông Trần Văn Q và bà Mạc Thị P; bị cáo chưa có chồng con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/10/2018 (có mặt).

Người bào chữa: Bà Nguyễn Ngọc T, Luật sư Văn phòng Luật sư Hồ Trung Hiếu thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H bào chữa chỉ định cho bị cáo (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Nguyễn Thụy Ngọc L, sinh năm 1976; HKTT: 02 A, Phường B, quận C; tạm trú: 03 D, Phường E, Quận F, Thành phố H (vắng mặt).

2. Ông Lê Bá G, sinh năm 1993; HKTT: khu vực I, phường K, quận S, thành phố V (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 25/10/2018, tại trước quán cà phê TV - kế nhà 04 J, KP5,TT Z, huyện R, Thành phố H. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện R, Thành phố H phát hiện, bắt quả tang Trần Thị Diễm T đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán. Vật chứng thu giữ: 01 bịch nylon màu trắng bên trong có chứa 01 bịch nylon trong suốt, bên trong bịch nylon trong suốt chứa tinh thể không màu do T tự lấy trong lưng quần ra giao nộp (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 96,2047g, loại Methamphetamine – Bản kết luận giám định số 1754/KLGĐ-H ngày 30/10/2018 – BL27); 01 điện thoại di động hiệu Iphone, 1 xe gắn máy biển số aaEb-xxxxx.

Quá trình điều tra Trần Thị Diễm T khai nhận: T bắt đầu mua bán ma túy đá từ khoảng cuối tháng 7/2018. Nguồn ma túy T mua của một người tên Mèo (không rõ lai lịch) thông qua bạn ngoài xã hội. T đã mua ma túy của Mèo 03 lần, hai lần ma túy đá giá 1.800.000 đồng tại đường TĐ, Quận 6. Sau đó mang đến đường KH, Quận 6 bán cho người nghiện giá 2.100.000 đồng.

Lần thứ 3, khoảng 18 giờ ngày 25/10/2018, T nhận được điện thoại của một người tên U (không rõ lai lịch) đặt mua một lạng ma túy đá giá 40.000.000 đồng. T đồng ý, hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại gần quán Cafe TV trên đường J, thị trấn Z, huyện R. Sau khi liên lạc được với Mèo, T đặt mua của Mèo 01 lạng ma túy giá 39.000.000 đồng, hẹn bán xong sẽ trả tiền.

Mèo đồng ý, giao ma túy cho T tại đường TĐ, Quận 6.

Sau khi nhận được ma túy, T rủ Trần Nguyễn Thụy Ngọc L (là bạn quen biết) cùng đi R để tìm kiếm mặt bằng thuê buôn bán. Khi T chở L đến trước quán Cafe TV, do quán đóng cửa, T và L đứng gần quán chờ chủ quán để mở cửa, đồng thời T cũng chờ người tên U đến để bán ma túy như đã hẹn thì bị Cơ quan công an kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Lời khai của Trần Thị Diễm T phù hợp với các chứng cứ, tài liệu Cơ quan điều tra thu thập được, phù hợp với vật chứng là ma túy bị thu giữ.

Tại bản cáo trạng số 99/CT-VKS-P1 ngày 05/03/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Thị Diễm T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Phần tranh tụng tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thị Diễm T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Thị Diễm T từ 15 đến 17 năm tù.

Phạt bổ sung bị cáo T 5.000.000 (năm triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với quan điểm truy tố về tội danh và điều khoản của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, nhất trí với các tình tiết giảm nhẹ do Kiểm sát viên đề nghị. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, phạm tội nhưng chưa gây ra hậu quả lớn cho xã hội mà xử cho bị cáo mức án dưới mức đề nghị của Kiểm sát viên.

- Bị cáo đồng ý với cáo trạng truy tố và phần trình bày bào chữa của luật sư.

- Kiểm sát viên đối đáp: Do luật sư bào chữa cho bị cáo chỉ đề nghị giảm nhẹ hình phạt nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

- Luật sư và Kiểm sát viên bảo lưu ý kiến của mình đã trình bày trước phiên tòa, không tranh luận bổ sung.

- Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo Trần Thị Diễm T tại phiên tòa cơ bản phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, bản tự khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình nhưng do cần tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng 96,2047g (chín sáu phẩy hai không bốn bảy gam) để bán cho người khác vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 25/10/2018, tại trước quán cà phê TV - kế nhà 04 J, KP5,TT Z, huyện R, Thành phố H.

Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét ma túy là Methamphetamine mà bị cáo tàng trữ trái phép nhằm mục đích bán cho người khác có khối lượng 96,2047g (chín sáu phẩy hai không bốn bảy gam) là dấu hiệu định khung được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo về hình phạt đặt ra phải nghiêm, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục họ ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm; cũng như để trấn áp tình hình tội phạm ma túy đang xảy ra trên địa bàn Thành phố H hiện nay. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt do bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây, phạm tội lần đầu là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Xét cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố đối với bị cáo Trần Thị Diễm T về khung, điều luật và tội danh như đã viện dẫn trên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét phần luận tội của Kiểm sát viên là đồng quan điểm với Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Xét ý kiến bào chữa của luật sư: Về các tình tiết giảm nhẹ là có cơ sở xem xét còn các đề nghị còn lại là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

3] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Xét về xử lý vật chứng: 01 điện thoại thu giữ của bị cáo có liên quan đến việc mua bán ma túy nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

Đi với xe gắn máy biển số aaEb-xxxxx của bà Trần Nguyễn Thụy Ngọc L sử dụng vào việc phạm tội của bị cáo T: Bà L khai mua của ông Lê Bá G ở Cần Thơ có thông qua giấy tờ mua bán tay nhưng bà Linh không cung cấp được giấy tờ trên và do ông Lê Bá Phận vắng mặt tại địa phương, không xác định được ở đâu nên cơ quan điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe trên đến nay chưa có ai đến nhận. Do đó, giao Cục thi hành án Dân sự Thành phố H tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đăng báo, nếu sau thời hạn này mà không ai đến nhận thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

Số vật chứng còn lại không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Diễm T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Diễm T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Diễm T 5.000.000 (năm triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đỏ, model A1661 ID BCG – E3087A (màn hình bể, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy);

Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1754/2018, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và đồng chí Đỗ Nhân Quyền, cán bộ PC04 - CA TP. H, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định và 01 bịch nylon;

Giao Cục Thi hành án dân sự Thành phố H tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu đối với 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Vision, BS: aaEb-xxxxx, SK: cccJF0005GY377643 (ghi theo số cà), SM: dd11E0366018 (ghi theo số cà) (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra được) trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đăng báo nếu hết thời hạn này mà không ai đến nhận thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 205/19 ngày 06/03/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H).

Bị cáo Trần Thị Diễm T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 139/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:139/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;