Bản án 138/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 138/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 127/2021/TLST-HS, ngày 02 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 583/2021/QĐXXST-HS, ngày 22 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Hunh Minh T, sinh năm: 1990; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Cần Thơ.

Đăng ký thường trú: 45/31 đường Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; Chỗ ở: như trên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Quan hệ gia đình Cha tên: Huỳnh Minh T (c); Mẹ tên: Nguyễn Thị Hương T (c); Anh ruột: Có 01 người; Vợ: Lê Thị Ngọc H; Con: Có 01 người, sinh năm: 2021;

Tiền sự: Chưa;

Tiền án: 02 lần, trong đó 01 được xóa án tích 01 chưa được xóa án tích như sau:

- Tại Bản án số 130/2007/HS-ST, ngày 24/07/2007 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, xử phạt tội “Cướp giật tài sản” bị xử phạt 08 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/11/2008 đã đóng án phí (Đã xóa án tích);

- Tại Bản án số 175/2015/HS-ST, ngày 25/08/2015 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, xử phạt tội “Cướp giật tài sản” bị xử phạt 04 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2018, đã đóng án phí, chưa chấp hành phần nghĩa vụ trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại (Chưa được xóa án tích);

Bị Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố về tội “Cướp giật tài sản” theo Điểm d, g, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự (năm 2015).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 02/04/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Trần Thị Tuyết N, sinh ngày: 12/3/2006. Người giám hộ (Đại diện): Bà Dương Thị Mỹ P, sinh năm: 1984. Địa chỉ: 546/6 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ (Mẹ bị hại) (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Ngọc H, sinh năm: 1993. Địa chỉ: 11 tổ 44, khu vực 7, phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Địa chỉ liên lạc: 45/31 đường Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. ( Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 25 phút ngày 21/3/2021, Huỳnh Minh T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Click, màu trắng, biển số 65D1-345.98 lưu thông trên tuyến đường Trần Hưng Đạo, hướng từ giao lộ Trần Hưng Đạo và Mậu Thân về cầu Nhị Kiều. Khi đến trước nhà số 105 đường Trần Hưng Đạo, phường An Phú, quận Ninh Kiều, Thành phát hiện em Trần Thị Tuyết N (sinh ngày 12/3/2006) đang điều khiển xe đạp lưu thông cùng chiều, có để 01 ba lô màu xanh trên rổ xe phía trước, nên Thành nảy sinh ý định cướp giật chiếc ba lô của em Ngân. Huỳnh Minh T điều khiển xe mô tô vượt lên bên phải xe đạp của em N, dùng tay trái giật ba lô trên rổ xe đạp rồi tăng ga điều khiển xe mô tô tẩu thoát vào hẻm 98 đường Trần Hưng Đạo, phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều. Sau đó, khi đến bãi đất trống đối diện nhà số 149/58 đường Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, thì Thành dừng xe, kiểm tra tài sản bên trong phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro, tiền Việt Nam 500.000 đồng và một số tập, sách nên Thành lấy điện thoại di động và số tiền trên rồi vứt ba lô tại bãi đất trống. Đến tối cùng ngày, Thành mang điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro bán cho một người đàn ông tên Hùng (chưa rõ lai lịch) trong hẻm 138 Trần Hưng Đạo, phường An Nghiệp, với giá 1.000.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết.

Cùng ngày, em Trần Thị Tuyết N đến Công an phường An Phú, quận Ninh Kiều, trình báo sự việc. Qua kiểm tra camera an ninh và xác minh đối tượng nghi vấn trên địa bàn, cơ quan Công an xác định Huỳnh Minh T là người thực hiện hành vi cướp giật tài sản nên mời Thành về làm việc.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Huỳnh Minh T thừa nhận hành vi cướp giật tài sản là ba lô, bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro và tiền 500.000 đồng, của em Trần Thị Tuyết N nhằm mục đích lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô hiệu Honda Click, màu trắng, biển số 65D1- 345.98, 01 nón bảo hiểm, màu đen hiệu Vespa, 01 áo thun tay ngắn màu xanh, 01 đôi dép kẹp, 01 quần Jean màu xanh.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 357/KL-HĐĐG ngày 09/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Ninh Kiều kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro có giá trị là 1.600.000 đồng; đối với 01 ba lô màu xanh, 01 cái bóp màu hồng hiện không rõ đặc điểm, hiện trạng, nguồn gốc xuất xứ và thời gian đã qua sử dụng, nên không có cơ sở định giá.

Về trách nhiệm dân sự, bị hại Trần Thị Tuyết N yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 7.690.000 đồng, bị cáo chưa bồi thường.

Đối với xe mô tô Honda Click, màu trắng, biển số 65D1-345.98, qua xác minh, xe mô tô trên do chị Lê Thị Ngọc H (vợ bị cáo) làm chủ sở hữu. Việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện cướp giật tài sản chị Huyền không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản là xe mô tô trên cho chị Lê Thị Ngọc H, chị Huyền đã nhận xong.

Đối với người nam thanh niên tên Hùng mua điện thoại của Thành, do bị cáo khai không biết rõ họ, tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 141/CT-VKSNK, ngày 30 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố bị cáo Huỳnh Minh T về tội:“Cướp giật tài sản” theo Điểm d, g, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự (năm 2015);

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung cáo trạng, có phân tích hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Minh T về tội:“Cướp giật tài sản”;

Đề nghị áp dụng:

Áp dụng Điểm d, g, i Khoản 2 Điều 171; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Minh T mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định. Ghi nhận Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô hiệu Honda Click, màu trắng, biển số 65D1-345.98, cho chị Lê Thị Ngọc Huyền, bà Huyền nhận lại xong không yêu cầu gì thêm. Nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về trách nhiệm bồi thường ghi nhận sự thỏa thuận bị cáo tự nguyện chấp nhận bồi thường cho bị hại tổng số tiền bị hại yêu cầu.

Bị cáo Huỳnh Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đã có hành vi dùng xe mô tô cướp giật 01 ba lô có 01 điện thoại và tiền của em Trần Thị Tuyết Ngân, tài sản cướp được đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân như quá trình điều tra;

Bị hại Trần Thị Tuyết N, sinh năm: 12/3/2006. Có Đại diện: Bà Dương Thị Mỹ P, sinh năm: 1984 (Mẹ ruột) trình bài: Yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền là 7.690.000 đồng (Bảy triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).

Bị cáo đồng ý bồi thường như bị hại yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng; Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2] Về nội dung chứng cứ hành vi: Bị cáo Huỳnh Minh T thừa nhận hành vi, vào khoảng 16 giờ 25 phút ngày 21/3/2021, bị cáo một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Click, màu trắng, biển số 65D1-345.98 lưu thông trên tuyến đường Trần Hưng Đạo, hướng từ giao lộ Trần Hưng Đạo và Mậu Thân về cầu Nhị Kiều. Khi đến trước nhà số 105 đường Trần Hưng Đạo, phường An Phú, quận Ninh Kiều, bị cáo phát hiện em Trần Thị Tuyết N (sinh ngày 12/3/2006) đang điều khiển xe đạp lưu thông cùng chiều, có để 01 ba lô màu xanh trên rổ xe phía trước, nên bị cáo nảy sinh ý định cướp giật chiếc ba lô của em Ngân, bị cáo áp sát giật lấy ba lô và tẩu thoát. Tài sản chiếm đoạt được có trong ba lô là 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro và tiền 500.000 đồng; Theo Bản kết luận định giá tài sản số: 357/KL-HĐĐG ngày 09/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Ninh Kiều kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro có giá trị là 1.600.000 đồng; đối với 01 ba lô màu xanh, 01 cái bóp màu hồng hiện không rõ đặc điểm, hiện trạng, nguồn gốc xuất xứ và thời gian đã qua sử dụng, nên không có cơ sở định giá. Bản thân có một tiền án chưa được xóa án tích, Bản án số 175/2015/HS-ST, ngày 25/08/2015 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, xử phạt tội “Cướp giật tài sản” bị xử phạt 04 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2018, đã đóng án phí, chưa chấp hành phần nghĩa vụ trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại (Chưa được xóa án tích), theo giấy xác nhận số 132/GXN-CCTHADS, ngày 14/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Cướp giật tài sản” theo Điểm d, g, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với tang vật và các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ. Vì vậy, Hội đồng xét xử khẳng định Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản luật đã nêu là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Về hành vi: Bị cáo Huỳnh Minh T đã dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng xe mô tô phân khối lớn là nguồn nguy hiểm cao độ, ngay tức khắc giật ba lô trên xe đạp người bị hại sinh ngày: 12/3/2006 là người dưới 16 tuổi, bị cáo đã cướp giật được tài sản của bị hại là chiếc ba lô có 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro và tiền 500.000 đồng. Hành vi của bị cáo thực hiện là cố ý; hành vi này đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, trong độ tuổi lao động không lo chí thú tìm công việc làm tốt, kiếm tiền một cách chính đáng. Vì lười lao động muốn có tiền tiêu xài không phải lao động chính đáng, nên bị cáo đã lựa chọn con đường cướp giật tài sản. Bản thân là có một tiền án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích tái phạm. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa bản thân và cũng để phòng ngừa chung cho các hành vi tương tự trong xã hội.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa và quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo thống nhất bồi thường theo yêu cầu của đại diện bị hại; đại diện bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Nên Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo được hưởng tình tiết theo Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về các tình tiết tăng nặng: Do đã áp dụng tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm nên không áp dụng tình tiết tăng nặng.

[6] Về xử lý tang vật, vật chứng: Ghi nhận Cơ quan điều tra đã trả tài sản theo Quyết định xử lý vật chứng số 53, ngày 01/06/2021 tài sản đã trả là: 01 xe mô tô hiệu Honda Click, màu trắng, biển số 65D1-345.98, cho chị Lê Thị Ngọc H, bà Huyền nhận lại xong không yêu cầu gì thêm (Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 02/6/2021), nên không đặt ra xem xét. Tại phiên tòa bà Huyền vắng mặt, nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu.

Đối với vật chứng vụ án: Là 01 (một) nón bảo hiểm, màu đen, hiệu Vespa; 01 (Một) áo thun tay ngắn, màu xanh; 01 (một) đôi dép kẹp; 01 (một) quận Jean, màu xanh, đã qua sử dụng, khó bảo quản, không có giá trị, nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền là 7.690.000 đồng (Bao gồm giá trị chiếc điện thoại và tiền trong ba lô); bị cáo thống nhất bồi thường cho bị hại tổng số tiền như bị hại yêu cầu. Nên ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do bị cáo gây ra.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Đối với án phí dân sự sơ thẩm: Do chấp nhận giá trị bồi thường tổng số tiền là 7.690.000 đồng x 5% = 384.500 đồng (Ba trăm tám mươi bốn nghìn năm trăm đồng). Do đó, bị cáo phải chịu 384.500 đồng (Ba trăm tám mươi bốn nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[9] Xét thấy lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận;

[10] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điểm d, g, i Khoản 2 điều 171; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, Tuyên bố bị cáo Huỳnh Minh T phạm tội:“Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh T 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với bị cáo được tính từ ngày 02/04/2021.

Về xử lý tang vật, vật chứng, trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tung hình sự; Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) nón bảo hiểm, màu đen, hiệu Vespa; 01 (Một) áo thun tay ngắn, màu xanh; 01 (một) đôi dép kẹp; 01 (một) quận Jean, màu xanh.

(Việc xử lý tang vật, vật chứng xử lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/7/2021 và Quyết định chuyển vật chứng số 118/QĐ-VKSNK, ngày 30/6/2021) khi án có hiệu lực pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự (năm 2015) công nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa:

Buộc bị cáo Huỳnh Minh T bồi thường tổng số tiền 7.690.000 đồng (Bảy triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng) cho bị hại Trần Thị Tuyết N, sinh ngày: 12/3/2006. Có Đại diện: Bà Dương Thị Mỹ P, sinh năm: 1984 (Mẹ ruột).

Kể từ khi Bản án (Quyết định) có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, nếu bị cáo chậm trả số tiền trên thì còn phải chịu lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo phải chịu 384.500 đồng (Ba trăm tám mươi bốn nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (27/9/2021) đối với bị cáo; bị hại có mặt; kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương nơi cư trú người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật thi hành án dân sự 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 138/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:138/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;