Bản án 138/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 138/2020/HS-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2020/TLST-HS, ngày 21 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 188/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Hoàng P, sinh năm: 1994; Giới tính: nam; tại Cần Thơ.

Nơi đăng ký thường trú: 482/21/8 đường Cách mạng tháng tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ (Nơi đã cư trú:19 đường Nguyễn Cư Trinh, phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ); Chỗ ở: như trên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quan hệ gia đình: Cha tên: Đoàn K (s); Mẹ: Nguyễn Thị Kh (s); Anh, chị, em ruột: 01 người (sinh năm: 1996); Bản thân chưa vợ, con; Tiền sự: Chưa Tiền án: 01 lần. Tại Bản án số 67/2016/HS-ST, ngày 13/4/2016 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 02 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/7/2017.

Bị Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 250 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự (năm 2015).

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/12/2019 và đang bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Hồng Q, sinh năm: 1995; Giới tính: nam; tại Bạc Liêu.

Nơi đăng ký thường trú: KV 2, phường HT, thị xã N (nay là thành phố N), tỉnh Hậu Giang; Chỗ ở: 315/9 đường A, phường B, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (319/9 đường A, phường B, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ);

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Chạy xe mô tô công nghệ; Quan hệ gia đình: Cha tên: Nguyễn Hồng X (s); Mẹ tên: Nguyễn Thị M (s); Anh, chị, em ruột: không; Bản thân chưa vợ, con;

Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa;

Bị Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự (năm 2015).

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/12/2019 và đang bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Huỳnh Văn H, sinh năm: 1972. Địa chỉ: 18C đường C, phường K, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Vắng mặt tại phiên tòa).

2. Ông Huỳnh Đ, sinh năm: 1997. Địa chỉ: 18C đường C, phường K, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Vắng mặt tại phiên tòa).

3. Công ty Tài chính D.

Địa chỉ: Tầng 8, 9, 10 Tòa nhà G, số 24C đường Ph, phường L, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội.

Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà V, 519 đường E, phường Ng, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Đại diện ủy quyền: Ông Danh Th, chức vụ: Nhân viên thu hồi nợ (Theo văn bản ủy quyền số 200724-07/UQ-COL, ngày 24/7/2020) (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua tin báo của quần chúng nhân dân, khoảng 21 giờ 25 phút ngày 21/12/2019, lực lượng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ kết hợp với lực lượng Công an phường X, quận Ninh Kiều tuần tra, khi đến trước nhà số 79 đường Tr, phường X, quận Ninh Kiều lực lượng Công an phát hiện Nguyễn Hồng Q điều khiển xe mô tô biển số 95E1-724.56 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra thì Q ném 01 gói nilon hàn kín chứa các tinh thể không màu xuống đường. Lực lượng công an yêu cầu Q nhặt lên, Q khai nhận gói nilon chứa các tinh thể không màu là ma túy đá vừa mua của người tên P nên bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa các tinh thể không màu; 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9 màu tím; 01 xe mô tô biển số 95E1- 724.56.

Đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, lực lượng Công an phát hiện Đoàn Hoàng P điều khiển xe mô tô biển số 65U1-7945 trước nhà số 112 đường Y, phường X nên yêu cầu dừng xe kiểm tra thì P ném 02 gói nilon hàn kín chứa các tinh thể không màu xuống đường nên lực lượng công an yêu cầu P nhặt lên và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P.

Vật chứng thu giữ: 02 gói nilon không màu hàn kín bên trong chứa các tinh thể không màu; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen; 01 xe mô tô biển số 65U1-7945; tiền Việt Nam 500.000 đồng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Hoàng P tại số 19 đường Tr, phường X, quận Ninh Kiều, thu giữ những tang vật sau:

- 02 gói nilon hàn kín bên trong chứa các tinh thể không màu (cất giấu trong hộp giấy màu đen, để trong túi giấy màu trắng trong phòng ngủ);

- 03 cân điện tử; 05 chai gas; 03 quẹt gas; 02 đầu khò; 03 cuộn băng keo; 03 cây kéo; 20 ống hút nhựa; 01 bình tự chế; 50 bọc nilon nẹp miệng; 50 bọc nilon; 02 ống hút nhựa hàn kín một đầu, một đầu hở;

- 01 điện thoại di động hiệu ASUS màu đen vàng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen đỏ.

Tại Kết luận giám định số: 10/KL-PC09 ngày 27/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nilon gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,1438 gam loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số: 11/KL-PC09 ngày 27/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận:

Gói 1: Tinh thể không màu trong 02 gói nilon (Ký hiệu M1), gửi giám định, là ma túy, khối lượng 0,2669 gam, loại Methamphetamine;

Gói 2: Tinh thể không màu trong 02 gói nilon (Ký hiệu M2), gửi giám định, là ma túy, khối lượng 8,4726 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Hồng Q khai nhận bản thân bị cáo có sử dụng ma túy, bị cáo lên mạng xã hội biết P có bán ma túy nên ngày 21/12/2019, bị cáo đã gọi điện thoại cho P hỏi mua gói ma túy giá 200.000 đồng, P đồng ý và yêu cầu bị cáo đến lấy ma túy tại trước số nhà 19 đường Tr, phường X, quận Ninh Kiều. Sau khi mua gói ma túy của P, bị cáo điều khiển xe đến trước số nhà 79 đường Tr thì bị lực lượng công an kiểm tra, bắt giữ.

Bị cáo Đoàn Hoàng P thừa nhận 02 gói ma túy bị thu giữ tại phòng ngủ là của bị cáo mua của đối tượng tên T1 với giá 3.000.000 đồng để bán lại cho người nghiện thu lợi. Bị cáo thừa nhận đã bán gói ma túy cho Nguyễn Hồng Q với giá 200.000 đồng như lời khai của Q. Ngoài ra, bị cáo còn khai nhận đã bán ma túy đá cho Nguyễn Phúc Đ1 02 lần, mỗi lần giá 200.000 đồng, bán cho người tên “MrK” 01 lần giá 200.000 đồng, bán cho người tên “AT” 01 lần giá 200.000 đồng. Riêng 02 gói ma túy bị thu giữ trước nhà số 112 đường Y bị cáo mang theo để sử dụng cùng với người bạn tên Tr.

Đối với xe mô tô biển số 65U1-7945, bị cáo P sử dụng vận chuyển trái phép chất ma túy vào ngày 21/12/2019 bị cáo khai mượn xe này của người tên “VĐ”. Qua xác minh xe này thuộc sở hữu của ông Huỳnh Văn H, ông H giao xe cho con ruột tên Huỳnh Đ quản lý, sử dụng sau đó Đ cầm cố xe cho VĐ và không biết xe này được sử dụng làm phương tiện phạm tội. Hiện tại, VĐ không có mặt tại địa phương nên chưa tiến hành làm việc được. Ông Huỳnh Văn H yêu cầu được nhận lại xe trên.

Đối với người tên “T1” - bán ma túy cho Đoàn Hoàng P và những người đã mua ma túy của P tên “MrK”, “AT”, do bị cáo khai không biết rõ tên thật và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Ninh Kiều tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau. Riêng Nguyễn Phúc Đ1, Cảnh sát điều tra - Công an quận Ninh Kiều đã thông báo về địa phương để quản lý theo quy định.

Đối với xe mô tô 95E1 – 724.56, bị cáo Q sử dụng vận chuyển trái phép chất ma túy vào ngày 21/12/2019 bị cáo khai xe của bị cáo mua trả góp, đã góp được một tháng thì bị bắt. Qua làm việc với Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội thể hiện có vay mua xe trả góp số tiền vay là 17.400.000 đồng ngày 12/11/2019, thời hạn vay 12 tháng, bị cáo thanh toán được số tiền 1.761.000 đồng hiện đến ngày 10/8/2020 số tiền bị cáo còn phải thanh toán cho Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội số tiền là 19.205.686 đồng (Mười chín triệu hai trăm linh năm nghìn sáu trăm tám mươi sáu đồng). Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội yêu cầu được nhận xe để xử lý nợ và thu hồi vốn.

Tại bản cáo trạng số 77/CT-VKSNK ngày 20 tháng 4 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố bị cáo Đoàn Hoàng P về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 250 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự (năm 2015); truy tố Nguyễn Hồng Q về tội: ‘Vận chuyển trái phép chất ma túy’ theo Điểm c Khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo, có phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt; Các bị cáo phạm tội thuộc đồng phạm giản đơn; từ đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Đoàn Hoàng P về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy”; Nguyễn Hồng Q về tội:

Vận chuyển trái phép chất ma túy’ Đề nghị áp dụng:

Áp dụng đối với bị cáo Đoàn Hoàng P: Điểm c Khoản 1 điều 250; Điểm b, i Khoản 2, Khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo P tội Vận chuyển trái phép chất ma túy mức án từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; đề nghị xử phạt bị cáo P tội Mua bán trái phép chất ma túy mức án từ 08 năm đến 09 năm tù; Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt hai tội trên đối với bị cáo. Áp dụng đối với bị cáo Q: Điểm c Khoản 1 điều 250; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo Q mức án từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù;

Hình phạt bổ sung:

Phạt bổ sung bị cáo P từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý tang vật, vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự xử lý theo quy định.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy tang vật có liên quan đến các chất ma túy, vật để sử dụng ma túy.

Ghi nhận tự nguyện giao xe mô tô biển số 95E1-724.56 cho Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội. Bị cáo khai mua trả góp và còn đang góp để Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội xử lý nợ.

Tịch thu điện thoại Oppo F9 của Q và Oppo của P Trả lại xe mô tô biển số 65U1-7945 cho ông Huỳnh Văn H.

Trả lại số tiền 500.000 đồng cho bị cáo P; trả 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 điện thoại di động hiệu Asus (Đề nghị giữ lại để thi hành án).

Các bị cáo thống nhất nội dung cáo trạng và thành khẩn khai báo, tự nguyện giao xe cho Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội như đề nghị của bên Công ty để xử lý nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Bị cáo P đã thừa nhận mua ma túy methemphetamine của đối tượng tên T1. Mục đích của bị cáo mua ma túy về để bán lại và sử dụng, thể hiện ngày 21/12/2019 qua bắt quả tang bị cáo trên đường vận chuyển để tìm đối tượng tên “Tr” tang vật thu giữ số ma túy của bị cáo P là loại Methamphetamine có khối lượng 01 gói, là 0,1438 gram (gam), và qua khám xét tại nơi ở của bị cáo thu giữ số ma túy của bị cáo P là loại Methamphetamine có khối lượng 02 gói, gói 01 là 0,2669 gram (gam), gói 02 là 8,4726 gam, đây là số ma túy bị cáo P vừa mua từ đối tượng tên T1 về phân chia ra bán kiếm lời, quá trình điều tra bị cáo P khai mua số ma túy từ đối tượng tên Thăm về phân chia và đã bán cho các đối tượng như: Đạt 02 lần; bán cho Q 200.000 đồng; bán cho tên “MrK” 01 lần; bán cho tên “AT” . Riêng gói ma túy bị thu giữ trước nhà số 112 đường Y bị cáo mang theo để sử dụng cùng với người bạn tên Tr.

Nguyễn Hồng Q khai vừa mua số ma túy của P về để sử dụng ma túy thì bị bắt. Lời khai của bị cáo Q và P trong quá trình điều tra và tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ. Hành vi của bị cáo Đoàn Hoàng P đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hành vi bị cáo Nguyễn Hồng Q khi bị bắt tang vật thu giữ là số ma túy sau khi mua của P trước số 79 đường Tr, phường X, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ thu giữ số ma túy của bị cáo Q là loại Methamphetamine có khối lượng 01 gói, gói 01 là 0,1438 gram (gam) đây là số ma túy bị cáo Q mua từ P. Lời khai của bị cáo Q trong quá trình điều tra và tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ. Hành vi của bị cáo Q đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Vận chuyển trái phép chất ma túy” Vì vậy, Hội đồng xét xử khẳng định Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản luật đã nêu là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Về hành vi: Nhà nước thống nhất quản lý các chất ma tuý, nhằm đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của xã hội. Đồng thời Nhà nước cũng nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma tuý. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của các bị cáo, nên hành vi của các bị cáo là cố ý và hành vi này đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy; các bị cáo là người đã trưởng thành, trong độ tuổi lao động không lo chí thú làm ăn chính đáng, nhưng lại lựa chọn việc mua bán ma túy, sử dụng ma túy, hủy hoại bản thân, hành vi của các bị cáo đã làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh và trật tự công cộng tại địa phương. Bản thân các bị cáo nhận biết hành vi của mình là trái pháp luật, ảnh hưởng xấu đến gia đình và xã hội, tác hại của ma tuý đối với xã hội là rất lớn, sử dụng ma tuý đã đưa vào xã hội nhiều căn bệnh hiểm nghèo (như: HIV; Lao …); nhiều tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản… và làm nhiều gia đình khốn đốn, ảnh hưởng to lớn đến sức khoẻ cộng đồng dân cư. Nhưng các bị cáo vẫn cố ý mua bán, vận chuyển ma túy (Methamphetamine), bị cáo Q mua ma túy tìm chỗ để sử dụng; Bị cáo P mua ma túy để bán kiếm lời và sử dụng, bán ma túy cho nhiều đối tượng, nhiều lần nên đã phạm tội “Mua bán trái phép chấp ma túy”; trong lúc trên đường vận chuyển ma túy để tìm tên “Tr” thì bị bắt, nên bị cáo P đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chấp ma túy” ; bị cáo Q mua ma túy về trên đường vận chuyển về sử dụng nên bị cáo Q phạm tội “Vận chuyển trái phép chấp ma túy”. Qua phân tích hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, để có tính răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội nên cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để các bị cáo có thời gian suy nghĩ tác hại của ma tuý mà làm lại cuộc đời, có thời gian để cai nghiện và để phòng ngừa chung các hành vi tương tự trong xã hội.

[4] Về tính chất tội phạm: Bị cáo P mua ma túy cất trong người trên đường tìm chỗ sử dụng ma túy, với mục đích về cùng để sử dụng với tên “Tr”thì bị bắt; cùng lúc khám xét tại nơi ở của bị cáo tang vật là ma túy, P khai mua để sử dụng và phân chia bán lại cho các đối tượng nghiện; Qua điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thể hiện các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ với nhau, không có sự phân công rõ ràng, không có người chủ mưu… Nên Hội đồng xét xử xem đây là đồng phạm giản đơn và việc phạm tội của các bị cáo phải gánh chịu hậu quả pháp lý của từng bị cáo về hành vi của mình gây ra cũng như tang vật thu giữ của các bị cáo tương đối có trọng lượng lớn. Trong đó đối với bị cáo P qua kết luận giám định thể hiện có chất ma túy là Methamphetamine có tổng khối lượng là 8,7395 gam (theo kết luận số 11/KL-PC09, ngày 27/12/2019) có khối lượng lớn và bán ma túy cho nhiều đối tượng nên Viện kiểm sát chỉ truy tố bị cáo theo Điểm b, i Khoản 2 Điều 251; Riêng đối với tang vật thu giữ 02 gói kí hiệu M1 bắt quả tang ngày 21/12/2019 trên đường bị cáo vận chuyển tìm để tìm tên “Tr” đã thể hiện rõ lời khai và chứng cứ nên bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015; Bị cáo Q mua ma túy trên đường vận chuyển tìm chỗ sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật nên bị truy tố tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015. Qua đánh giá tính chất, mức độ phạm tội Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt thích hợp, tương ứng từng hành vi của các bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, các bị cáo phải chịu hậu quả pháp lý do các bị cáo đã thực hiện thể hiện sự công bằng của pháp luật.

[5] Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về các tình tiết tăng nặng: Đối với bị cáo P có một tiền án, tại Bản án số 67/2016/HS-ST, ngày 13/4/2016 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 02 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/7/2017, đã đóng án phí hình sự sơ thẩm xong, nên Căn cứ Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo P được xem đương nhiên được xóa án tích nên không xem là tình tiết tăng nặng. Bị cáo Q không có tình tiết tăng nặng.

[7] Về xử lý tang vật, vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự xử lý theo quy định.

Tịch thu sung công vật, tài sản liên quan gồm:

+ Tịch thu sung công 03 (ba) cân điện tử (đã qua sử dụng) đây là tài sản bị cáo dùng để phân chia ma túy phục vụ cho việc phạm tội, có giá trị, nên tịch thu;

+ 01(một) chiếc điện hiệu Oppo F9 màu tím, máy khóa mật khẩu, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy (đã qua sử dụng), đây là tang vật bị cáo Q điện thoại cho P mua ma túy, nên tịch thu sung công; Riêng đối với sim kèm điện thoại tịch thu tiêu hủy.

+ 01(một) chiếc điện hiệu Oppo không rõ đời máy, màu đen, bể màn hình, máy khóa mật khẩu, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy (đã qua sử dụng), đây là tang vật của bị cáo P dùng để điện thoại mua bán ma túy, nên tịch thu sung công; Riêng đối với sim kèm điện thoại tịch thu tiêu hủy.

Trả lại tài sản gồm:

+ Trả lại cho bị cáo Đoàn Hoàng P: 01(một) chiếc điện hiệu Nokia 106 màu đỏ - đen, Imei: 357141064883573, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại hiệu Asus-Z007, màu đen – vàng, Imei:

352260072061207 đã qua sử dụng không kiểm tra được tình trạng chất lượng bên trong máy; trả cho P số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) theo biên lại thu số 005354, ngày 21/4/2020, do tang vật này chưa đủ căn cứ chứng minh bị cáo dùng trong việc phạm tội (Đề nghị giữ lại để đảm bảo thi hành án);

+ Trả cho ông Huỳnh Văn H 01 (một) xe mô tô biển số 65U1-7945, số máy: JC43E0558549, số khung: RLHJC43139Y037839, dung tích 109 xe đã qua sử dụng không kiểm tra được chất lương bên trong; Do xe này bị cáo P sử dụng vận chuyển trái phép chất ma túy vào ngày 21/12/2019 bị cáo khai mượn xe này của người tên “VĐ”. Qua xác minh xe này thuộc sở hữu của ông Huỳnh Văn H, ông H giao xe cho con ruột tên Huỳnh Đ quản lý, sử dụng sau đó Đ cầm cố xe cho VĐ và không biết xe này được sử dụng làm phương tiện phạm tội. Hiện tại, VĐ không có mặt tại địa phương nên chưa tiến hành làm việc được. Ông Huỳnh Văn H yêu cầu được nhận lại xe trên nên trả lại xe cho ông H. Đối với việc cầm xe giá trị bao nhiêu tiền nếu có chứng minh được tách ra giải quyết thành vụ kiện khác giữa “Vũ đen” với Huỳnh Đ khi đương sự có yêu cầu.

Tịch thu tiêu hủy các tang vật như sau:

+ Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong theo kết luận số 10/KL-PC09, ngày 27/12/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, trọng lượng còn lại sau giám định là 0,1294 gram (gam) ma túy, loại Methamphetamine;

+ Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong theo kết luận số 11/KL-PC09, ngày 27/12/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ (02 gói) trọng lượng còn lại sau giám định là M1: 0,1976 gram (gam) ma túy M2: 8,3017 gram (gam) ma túy, loại Methamphetamine;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bình tự chế sử dụng ma túy; 02 (hai) đầu khò; 03 (ba) cây kéo; 03 (ba) hột quẹt gas; 05 (năm) chai gas mini; 03 (ba) cuộn băng keo; 20 (hai mươi) ống hút nhựa; 02 (hai) đoạn ống hút hàn kín một đầu; 50 (năm mươi) bọc nilon nẹp miệng; 50 (năm mươi) bọc nilon; 01 (một) hộp giấy màu đen; 01 (một) túi xách bằng giấy màu trắng.

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, biển số 95 E1- 724.56, số máy: E3T6E424778, số khung: RLCUE1710KY286319, dung tích 114 (đã qua sử dụng không rỏ chất lượng bên trong), đây là xe của bị cáo Q dùng để vận chuyển ma túy trên đường thì bị bắt quả tang. Qua xác minh theo phiếu trả lời xác minh của Phòng cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt thành phố Cần Thơ xác nhận chủ sở hữu là Nguyễn Hồng Q. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai xe mua trả góp của Công ty tài chính, mới góp một tháng thì bị bắt. Quá trình làm việc Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội yêu cầu được nhận xe để xử lý nợ và thu hồi vốn. Hội đồng xét xử xét thấy, việc bị cáo khai mua góp là có hợp đồng, tại phiên tòa bị cáo tự nguyện giao xe này cho bên Công ty tài chính để xử lý nợ góp theo hợp đồng, trường hợp chưa giải quyết xong hợp đồng, bị cáo đề nghị tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi các bên có yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử ghi nhận sự nguyện của bị cáo Nguyễn Hồng Q giao 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, biển số 95 E1-724.56, số máy: E3T6E424778, số khung: RLCUE1710KY286319, dung tích 114 (đã qua sử dụng không rỏ chất lượng bên trong) cho Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội để xử lý nợ.

(Tang vật xử lý: Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều; Quyết định chuyển vật chứng số 65/QĐ-VKSNK ngày 20/4/2020).

[8] Hình phạt bổ sung: Cần phạt bổ sung đối với bị cáo Đoàn Hoàng P số tiền tương thích để răn đe bị cáo, do bị cáo có hành vi mua bán ma túy, thu lợi bất chính. Đối với bị cáo Q do bị cáo vận chuyển ma túy để sử dụng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Q.

[9] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. [10] Xét thấy lời trình bày của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận;

[11] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[12] Đối với người bán ma túy cho các bị cáo (Không rõ họ tên và địa chỉ) Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau. Đối với Nguyễn Phúc Đ1, Cảnh sát điều tra - Công an quận Ninh Kiều đã thông báo về địa phương để quản lý theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ áp dụng:

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Đoàn Hoàng P và Nguyễn Hồng Q phạm tội:“Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm b, i Khoản 2, Khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Đoàn Hoàng P phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 điều 250; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng đối với bị cáo Đoàn Hoàng P và Nguyễn Hồng Q, Xử phạt:

+ Bị cáo Đoàn Hoàng P 02 (hai) năm tù.

+ Bị cáo Nguyễn Hồng Q 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Nguyễn Hồng Q được tính từ ngày 21/12/2019.

Căn cứ vào Điểm b, i Khoản 2, Khoản 5 điều 250; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng đối với bị cáo Đoàn Hoàng P, Xử phạt: Đoàn Hoàng P 08 (tám) năm tù.

Căn cứ vào Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt của hai tội trên đối với bị cáo Đoàn Hoàng P phải chấp hành chung hình phạt là 10 (mười năm) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo P được tính từ ngày 21/12/2019.

- Phạt bổ sung bị cáo Đoàn Hoàng P 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước khi án có hiệu lực pháp luật.

Về xử lý tang vật, vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tịch thu sung công vật, tài sản liên quan gồm:

+ Tịch thu sung công 03 (ba) cân điện tử màu đen, không rõ nhãn hiệu, chất lượng bên trong (đã qua sử dụng) + Tịch thu sung công 01(một) chiếc điện hiệu Oppo F9 màu tím, máy khóa mật khẩu, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy (đã qua sử dụng); (Riêng đối với sim kèm điện thoại nếu có tịch thu tiêu hủy). + Tịch thu sung công 01(một) chiếc điện hiệu Oppo không rõ đời máy, màu đen, bể màn hình, máy khóa mật khẩu, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy (đã qua sử dụng) (Riêng đối với sim kèm điện thoại nếu có tịch thu tiêu hủy).

Trả lại tài sản gồm:

+ Trả lại cho bị cáo Đoàn Hoàng P: 01(một) chiếc điện hiệu Nokia 106 màu đỏ - đen, Imei: 357141064883573, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại hiệu Asus-Z007, màu đen – vàng, Imei: 352260072061207 đã qua sử dụng không kiểm tra được tình trạng chất lượng bên trong máy; trả cho P số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) theo biên lại thu số 005354, ngày 21/4/2020 khi án có hiệu lực pháp luật;

+ Trả cho ông Huỳnh Văn H 01 (một) xe mô tô biển số 65U1-7945, số máy: JC43E0558549, số khung: RLHJC43139Y037839, dung tích 109 xe đã qua sử dụng không kiểm tra được chất lương bên trong. (Đối với việc cầm xe giá trị bao nhiêu tiền nếu có chứng minh được tách ra giải quyết thành vụ kiện khác giữa “Vũ đen” với Huỳnh Đ khi đương sự có yêu cầu) khi án có hiệu lực pháp luật.

+ Giao 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, biển số 95 E1- 724.56, số máy: E3T6E424778, số khung: RLCUE1710KY286319, dung tích 114 (đã qua sử dụng không rỏ chất lượng bên trong) mang tên Nguyễn Hồng Q cho Công ty Tài chính D – Chi nhánh Hà Nội để xử lý nợ khi án có hiệu lực pháp luật.

Tịch thu tiêu hủy các tang vật như sau:

+ Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong theo kết luận số 10/KL-PC09, ngày 27/12/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, trọng lượng còn lại sau giám định là 0,1294 gram (gam) ma túy, loại Methamphetamine;

+ Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong theo kết luận số 11/KL-PC09, ngày 27/12/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ (02 gói) trọng lượng còn lại sau giám định là M1: 0,1976 gram (gam) ma túy M2: 8,3017 gram (gam) ma túy, loại Methamphetamine;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bình tự chế sử dụng ma túy; 02 (hai) đầu khò; 03 (ba) cây kéo; 03 (ba) hột quẹt gas; 05 (năm) chai gas mini; 03 (ba) cuộn băng keo; 20 (hai mươi) ống hút nhựa; 02 (hai) đoạn ống hút hàn kín một đầu; 50 (năm mươi) bọc nilon nẹp miệng; 50 (năm mươi) bọc nilon; 01 (một) hộp giấy màu đen; 01 (một) túi xách bằng giấy màu trắng.

(Tang vật xử lý: Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều; Quyết định chuyển vật chứng số 65/QĐ-VKSNK ngày 20/4/2020) khi án có hiệu lực pháp luật.

Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn đồng) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15(mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (28/8/2020) đối với các bị cáo và kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của người liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

407
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 138/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:138/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;