TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 137/2023/HS-PT NGÀY 15/03/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 15 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 643/TLPT-HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Tô Tiến D phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, bị cáo Đỗ Cao Ch, Nguyễn Văn H, Đỗ Minh C phạm tội “Đánh bạc” do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Tô Tiến D, (tên gọi khác: Không); sinh ngày 12 tháng 12 năm 1987, tại thành phố D1, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Tổ 5, phường D2, thành phố X, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Trọng H1, sinh năm 1964; con bà: Đinh Thị Hồng T, sinh năm 1965; anh em ruột: Có 02 anh em (Bị cáo là con thứ nhất); vợ: Phạm Thị Hà V, sinh năm 1988 (Vợ hai); con: Có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2021; tiền án: không; tiền sự: Tại Quyết định số 2208, ngày 19/2/2021, Công an phường D2, thành phố X xử phạt hành chính Tô Tiến D về hành vi cố ý gây thương tích. D nộp phạt ngày 15/10/2021; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 474 ngày 29/10/2010, Công an thành phố D1 xử phạt hành chính Tô Tiến D về hành vi đánh bạc. D nộp phạt ngày 01/11/2011. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang ở phường D2, thành phố X, tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt).
2. Họ và tên: Đỗ Cao Ch (tên gọi khác: Không); sinh ngày 01 tháng 10 năm 1983, tại huyện X2, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 6, thị trấn X3, huyện X2, tỉnh Phú Thọ; nơi ở hiện nay: Tổ 16I, khu X4, phường X5, thành phố D1, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Đình T1, sinh năm 1954; con bà: Bùi Thị Minh L, sinh năm 1955; anh em ruột: Gia đình có 4 anh, chị em, bị cáo là con thứ tư; vợ: Nghiêm Thị Th, sinh năm 1987; con: Có 2 con, con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: không; nhân thân (án tích,đã bị xử phạt vi phạm hành chính,đã xử lý kỷ luật): Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang ở phường X5, thành phố D1, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).
3. Họ và tên: Nguyễn Văn H (tên gọi khác: Không); sinh ngày 01 tháng 8 năm 1981, tại huyện X6, tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Bản X7, xã X8, huyện X9, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu H2, sinh năm 1944, con bà Nguyễn Thị S, (đã chết); anh em ruột: Gia đình có 5 anh, chị, em, bị cáo là con thứ năm; vợ: Nguyễn Thị H3, sinh năm 1985; con: Có 2 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân (án tích,đã bị xử phạt vi phạm hành chính,đã xử lý kỷ luật): Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang ở xã X8, huyện X9, tỉnh Sơn La. (Có mặt).
4. Họ và tên: Đỗ Minh C (tên gọi khác: Không); sinh ngày 30 tháng 6 năm 1995, tại X2, Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 6, thị trấn X3, huyện X2, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Xuân Th1, sinh năm 1972, con bà: Nguyễn Thị L1, sinh năm 1976; anh em ruột: Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ: Trần Thị Kiều N - sinh năm 1997; con: Có 1 con, sinh năm 2021;tiền án, tiền sự: Không; nhân thân (án tích,đã bị xử phạt vi phạm hành chính,đã xử lý kỷ luật): Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/6/2021 đến ngày 30/6/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang ở thị trấn X3, huyện X2, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt).
* Người bào chữa cho bị cáo Tô Tiến D: Luật sư Đỗ Mạnh L3 – Công ty Luật TNHH Y, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. (Có mặt).
Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Để kiếm tiền từ việc cá độ bóng đá qua tài khoản mạng nên tháng 5/2021, Đỗ Cao Ch - sinh năm 1983, ở phường X5, thành phố D1, tỉnh Phú Thọ bàn bạc với Nguyễn Xuân D3 - sinh năm 1986, ở phường D4, thành phố D1 lấy tài khoản cá độ bóng đá cấp đại lý về để chia cắt thành nhiều tài khoản nhỏ và cá độ qua tài khoản này với người chơi. Ch và D3 liên hệ với Tô Tiến D - sinh năm 1987, ở phường D2, thành phố X, tỉnh Tuyên Quang để lấy tài khoản. Tô Tiến D đã giao cho Nguyễn Xuân D3 01 tài khoản cấp đại lý ký hiệu “TVCHD1”, đường linh truy cập Wabi88.com, truy cập vào trang Web “Bong 88.com”, thỏa thuận quy đổi 1 điểm bằng 8.000 đồng.
Sau khi có được tài khoản từ Tô Tiến D, Nguyễn Xuân D3 đã đổi tên đăng nhập thành “VNPT 30”, mật khẩu đăng nhập là “TC888888” để truy cập trang “Bong 88.com”. D3 chia cắt thành nhiều tài khoản nhỏ (gọi là tài khoản người chơi) để giao cho các con bạc tham gia cá độ trong các trận đấu bóng đá tại giải UEFA EURO và các giải bóng khác trong nước và quốc tế. Tài khoản của D3 trực tiếp quản lý các tài khoản người chơi và có khả năng kiểm tra số lần đặt cược cá độ bóng đá, số điểm đặt cược, loại hình đặt cược, số trận thắng thua và tổng hợp kết quả thắng thua. Nguyễn Xuân D3 là người tạo mới các tài khoản, tạm dừng hoặc dừng hoạt động các tài khoản người chơi. Người chơi sẽ được cấp tài khoản và mật khẩu để truy cập vào tài khoản cá độ để lựa chọn trận bóng, kèo, tỷ lệ cược. Tài khoản cá độ thể hiện được thời gian, ngày diễn ra trận đấu, tên đội bóng tham gia, các kèo cá cược để người chơi lựa chọn, tỷ lệ cược, điểm cược, tỷ số trận đấu, điểm thắng, thua theo tỷ lệ ăn bỏ quy định trước, kết quả kèo cược khi kết thúc trận đấu, thời gian thực tế tại thời điểm đặt cược. Khi giao tài khoản, Ch và D3 sẽ thống nhất tiền quy đổi với từng người chơi từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng/1 điểm, hạn mức điểm, thời gian, địa điểm thanh toán. Căn cứ vào kết quả điểm thắng thua thì D3 và người chơi sẽ tự quy đổi thành tiền để thanh toán cho nhau.
Đỗ Cao Ch và Nguyễn Xuân D3 thống nhất, D3 sẽ là người quản lý tài khoản và tìm người chơi; thu, trả tiền thắng thua; tỷ lệ phân chia là Ch 80%, D3 20%, tức là nếu D3 và Ch thắng cược thì D3 sẽ được hưởng 20% và Ch được hưởng 80% số tiền thắng. Ngược lại, nếu thua cược thì D3 phải trả 20%, Ch phải trả 80% số tiền thua cược. Nếu kết thúc trận đấu mà hòa tiền thì hai bên không phải thanh toán cho nhau.
Đồng thời, Nguyễn Xuân D3 cũng cấp cho Tô Tiến D 01 tài khoản phụ ký hiệu “TVCHD1 Subo1” để Tô Tiến D có thể xem Nguyễn Xuân D3 đã chia cắt được bao nhiêu tài khoản người chơi và giao cho các con bạc cá độ bóng đá, xem kết quả các trận đấu, số điểm cá cược, mức đặt cược và tỷ lệ thắng thua giữa Nguyễn Xuân D3 và các con bạc. Tài khoản của Tô Tiến D khác tài khoản của Nguyễn Xuân D3 là Tô Tiến D chỉ theo dõi được mà không chia cắt, đóng, mở, không trực tiếp đặt cược với người chơi.
Kết quả điều tra xác định Nguyễn Xuân D3 đã chia cắt từ tài khoản cấp đại lý thành 06 tài khoản người chơi để tham gia cá độ bóng đá gồm các tài khoản: TVCHD101001; TVCHD101002; TVCHD105007; DTE262040002; TVCHD104006; TVCHD103001 và TVCHD122003.
Trên cơ sở cách thức như trên, Đỗ Cao Ch và Nguyễn Xuân D3 giao tài khoản cho người chơi và đánh bạc cụ thể như sau:
1. Đối với Nguyễn Văn H - sinh năm 1981, ở xã X8, huyện X9, tỉnh Sơn La và Chu Văn C2 - sinh năm 1977, ở xã X10, huyện X9, tỉnh Sơn La Nguyễn Văn H có mối quan hệ với Đỗ Cao Ch và biết Ch có tài khoản để cá độ bóng đá. H đặt vấn đề hỏi Ch lấy tài khoản. Ch đồng ý và bảo Nguyễn Xuân D3 liên hệ, trao đổi trực tiếp với H.
Nguyễn Xuân D3 cung cấp cho H tài khoản cá độ bóng đá có tên hiển thị là TVCHD101001 và TVCHD101002 và thống nhất 1 điểm (hoặc gọi là đô) quy đổi là 100.000 đồng để tính tiền thắng thua. Sau đó, H giao tài khoản TVCHD101001 cho Chu Văn C2 - sinh năm 1977, ở xã X10, huyện X9, tỉnh Sơn La để Cầu trực tiếp đăng nhập, quản lý, chọn kèo cá cược để cá độ bằng tài khoản này. Tiền thắng thua Cầu báo lại H để H thanh toán. Kết thúc đợt cá độ, H cho Cầu tổng số tiền là 4.500.000 đồng. Còn tài khoản TVCHD101001 H tự đăng nhập để cá cược.
1.1 Đối với tài khoản TVCHD101001 do Chu Văn C2 sử dụng để cá độ Trong khoảng thời gian từ ngày 19/05/2021 đến ngày 14/06/2021, C2 đã đăng nhập vào tài khoản TVCHD101001 bằng điện thoại di động để đặt kèo các trận đấu bóng đá giữa các đội tuyển trong giải bóng đá UEFA EURO 2020, giải Brazil Seria, vòng loại Worldcup 2022 khu vực Châu Á và các giải bóng đá khác trong nước và quốc tế, như vậy C2 cá độ 91 trận đấu bóng đá giữa các cặp đội tuyển, trong đó có 1 trận bị nhà cái từ chối, có 02 trận số tiền đánh bạc trên 50 .000.000 đồng (66.000.000 đồng và 57.100.000 đồng), có 46 trận số tiền từ 5.000.000 đồng đến 45.900.000 đồng (dưới 50.000.000 đồng), có 42 trận số tiền dưới 5.000.000 đồng. C2 sử dụng mạng Internet để truy cập tài khoản cá độ, sử dụng phương tiện điện tử để phạm tội, số tiền dùng đánh bạc trên 50.000.000 đồng nên C2 phải chịu trách nhiệm hình sự 48 lần đánh bạc theo điểm b, điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên. C2 là người có nhân thân xấu. Số tiền thắng, thua Nguyễn Văn H đã thanh toán cho D3 qua tài khoản ngân hàng. Nguyễn Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự với Chu Văn C2 với vai trò đồng phạm như đã nêu trên.
1.2 Đối với tài khoản TVCHD101002 do Nguyễn Văn H sử dụng để cá độ Trong khoảng thời gian từ ngày 12/6/2021 đến ngày 20/06/2021, H đã đăng nhập vào tài khoản TVCHD101002 bằng điện thoại di động để đặt kèo các trận đấu bóng đá giữa các đội tuyển trong giải bóng đá UEFA EURO 2020. Trong số các trận từ ngày 12/6/2021 đến ngày 14/6/2021 không có trận nào cá độ trùng với Chu Văn C2 sử dụng tài khoản TVCHD101001. Như vậy, với tài khoản TVCHD101002 tổng số H cá độ 14 trận đấu bóng đá giữa các cặp đội tuyển, trong đó có 03 trận số tiền đánh bạc trên 50.000.000 đồng (80.000.000 đồng, 110.700.000 đồng và 231.950.000 đồng), có 10 trận số tiền từ 5.000.000 đồng đến 41.850.000 đồng (dưới 50.000.000 đồng), có 01 trận số tiền dưới 5.000.000 đồng. H sử dụng mạng Internet để truy cập tài khoản cá độ, sử dụng phương tiện điện tử để phạm tội, số tiền dùng đánh bạc trên 50.000.000 đồng.
Tổng hợp cả 2 tài khoản, H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạc với tổng số là 5 lần số tiền đánh bạc trên 50.000.000 đồng (trong đó 1 lần 57.100.000 đồng, 1 lần 66.000.000 đồng, 1 lần 80.000.000 đồng, 1 lần 110.700.000 đồng và 1 lần 231.950.000 đồng) và 56 lần số tiền đánh bạc trên 5.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng (từ 5.000.000 đồng đến 45.900.000 đồng). Do vậy, H phải chịu trách nhiệm hình sự 61 lần đánh bạc, theo điểm b, điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm phạm tội 02 lần trở lên. Số tiền thắng, thua Nguyễn Văn H đã thanh toán cho Nguyễn Xuân D3 qua tài khoản ngân hàng.
Kết quả các trận đấu H thắng cược là 87,6 điểm tương ứng số tiền 8.760.000 đồng. Điện thoại H sử dụng đánh bạc Cơ quan điều tra không thu giữ được do H làm rơi.
2. Đối với Đỗ Minh C- sinh năm 1995, ở khu 6, thị trấn X3, huyện X2, tỉnh Phú Thọ Qua các mối quan hệ xã hội nên C biết và đã yêu cầu Nguyễn Xuân D3 cấp tài khoản cá độ bóng đá để đánh bạc. D3 đồng ý và cấp cho C 02 tài khoản cá độ bóng đá ký hiệu TVCHD105007 và DTE262040002 để C cá độ.
2.1. Đối với tài khoản TVCHD105007 Đỗ Minh C sử dụng cá độ C và D3 thống nhất khi sử dụng tài khoản này để cá độ thì 1 điểm quy đổi thành 20.000 đồng. C cá độ từ ngày 12/06/2021 đến ngày 14/06/2021, trong các trận đấu bóng đá giữa các cặp đội tuyển của giải UEFA EURO 2020 và các trận đấu bóng đá trên thế giới. C sử dụng tài khoản mạng để cá độ tổng số 32 trận, trong đó có 6 trận số tiền cá độ trên 5.000.000 đồng và 26 trận số tiền cá độ dưới 5.000.000 đồng. Kết quả các trận cá độ bóng đá C thua 891 điểm tương ứng 17.820.000 đồng.
2.2. Đối với tài khoản DTE262040002 Đỗ Minh C sử dụng cá độ C và Nguyễn Xuân D3 thống nhất khi sử dụng tài khoản này để cá độ thì 1 điểm quy đổi thành 50.000 đồng. C cá độ từ ngày 14/06/2021 đến ngày 20/06/2021 để cá độ các trận bóng đá giữa các cặp đội tuyển của giải UEFA EURO 2020 và các giải bóng đá trên thế giới. Với tài khoản DTE26204002, C tham gia cá độ bóng đá tổng là 77 trận đấu, trong đó có 2 trận số tiền cá độ trên 50.000.000 đồng (60.300.000 đồng và 72.100.000 đồng); có 23 trận số tiền cá độ trên 5.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng; có 52 trận số tiền cá độ dưới 5.000.000 đồng. Kết quả 77 trận cá độ Cthua 389,27 điểm tương ứng số tiền 19.463.500 đồng.
Tổng hợp cả hai tài khoản cá độ, Đỗ Minh C cá độ tổng số 109 trận bóng đá, trong đó có 2 trận số tiền trên 50.000.000 đồng (60.300.000 và 70.100.000), 29 trận số tiền cá độ trên 5.000.000 đồng dưới 50.000.000 đồng và 78 trận số tiền cá độ dưới 5.000.000 đồng. C sử dụng mạng Internet để truy cập tài khoản cá độ, sử dụng phương tiện điện tử để phạm tội, số tiền dùng đánh bạc cao nhất là 72.100.000 đồng. Do vậy, C phải chịu trách nhiệm hình sự với 31 lần đánh bạc theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự và tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên. Tổng cả 2 tài khoản cá độ bóng đá C đã bị thua mất 1.280,27 điểm tương ứng số tiền 37.283.500 đồng.
3. Đối với Nguyễn Xuân D3 và Đỗ Cao Ch Sau khi nhận tài khoản cá độ bóng đá cấp đại lý của Tô Tiến D thì Nguyễn Xuân D3 đã chia cắt thành 6 tài khoản người chơi, quản lý và giao cho Nguyễn Văn H, Đỗ Minh C, Thạch Ngọc L4 và Lê Xuân Th2 để cá độ. Do vậy, Nguyễn Xuân D3 và Đỗ Cao Ch phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền dùng đánh bạc tương ứng với các lần đánh bạc với H (đã bao gồm các trận C2 cá độ), C, L4 và Th2. Trong đó, H sử dụng 2 tài khoản để cá độ 5 lần số tiền trên 50.000.000 đồng và 56 lần số tiền cá độ dưới 50.000.000 đồng; C sử dụng 2 tài khoản để cá độ 2 lần số tiền trên 50.000.000 đồng và 29 lần số tiền cá độ dưới 50.000.000 đồng; L4 cá độ 6 lần, Th2 cá độ 8 lần, số tiền đều dưới 50.000.000 đồng;
Tổng số các lần cá độ là: 7 lần số tiền trên 50.000.000 đồng và 99 lần số tiền dưới 50.000.000 đồng.
Tuy nhiên, trong số các trận đấu trên thì có các trận đấu trùng nhau mà cả H, C, L4, Th2 đều tham gia chọn kèo cá độ trong trận đó cho nên D3 phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền dùng đánh bạc là tổng số tiền cược và tiền thắng của các kèo mà người chơi đã chọn để cá độ. 17 trận thì có 10 trận số tiền cá độ trên 50.000.000 đồng và có 5 trận phát sinh mới so với cộng tổng các lần H, C2, C, L4, Th2 phải chịu trách nhiệm hình sự, giảm đi 11 trận số tiền dưới 50.000.000 đồng.
Như vậy, Nguyễn Xuân D3 phải chịu trách nhiệm hình sự 12 lần số tiền đánh bạc trên 50.000.000 đồng, cao nhất là trận 237.950.000 đồng và 88 lần số tiền đánh bạc dưới 50.000.000 đồng. Đỗ Cao Ch đồng phạm với D3 nên cũng phải chịu trách nhiệm hình sự với số lần và số tiền đánh bạc như nêu trên.
Ch và D3 thống nhất việc thắng thua và thanh toán vào thứ 2 hàng tuần với người chơi. Tổng cộng sau khi đối trừ toàn bộ các trận cá độ thì Ch được số tiền 51.011.152 đồng, D3 được 12.752.788 đồng.
Nguyễn Xuân D3 và Đỗ Cao Ch sử dụng mạng Internet để truy cập tài khoản cá độ, sử dụng phương tiện điện tử để phạm tội, số tiền dùng đánh bạc cao nhất là 237.950.000 đồng. Do vậy, Nguyễn Xuân D3 và Đỗ Cao Ch phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự, với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên.
Ngoài các lần đồng phạm với Chthì Nguyễn Xuân D3 phải chịu trách nhiệm hình sự thêm 1 lần đánh bạc với Trần Tr, dưới hình thức cá độ qua tin nhắn facebook, số tiền là 18.400.000 đồng.
4. Đối với Tô Tiến D Theo lời khai của Tô Tiến D thì D3 đã mua tài khoản cá độ bóng đá cấp đại lý tại trang Web có địa chỉ truy cập WWW.bong88.com, ký hiệu "TVCHD1" đường linh truy cập Wabi88.com của đối tượng tên Hà ở Hà Nội với giá 6.000đồng/1 điểm sau đó D3 giao tài khoản cá độ bóng đá cho Đỗ Cao Ch và Nguyễn Xuân D3 là 8.000đồng/1 điểm để được hưởng lợi nhuận tiền chênh lệch thắng hoặc bù lỗ là 2.000đ/1 điểm. Sau khi giao tài khoản cho Nguyễn Xuân D3 thì Nguyễn Xuân D3 đã cấp cho Tô Tiến D 01 tài khoản phụ ký hiệu “TVCHD1 Subo1” để D3 có thể biết được và theo dõi Nguyễn Xuân D3 đã chia cắt được bao nhiêu tài khoản nhỏ giao cho các con bạc cá độ bóng đá, xem kết quả các trận đấu, số điểm cá cược, mức đặt cược và tỷ lệ thắng thua giữa Nguyễn Xuân D3 và các con bạc. Qua việc theo dõi tài khoản cấp đại lý ký hiệu “TVCHD1” bằng tài khoản phụ, Tô Tiến D biết việc Nguyễn Xuân D3 đã chia cắt thành bao nhiêu tài khoản người chơi. Tô Tiến D chỉ theo dõi được tổng điểm thắng thua mà không can thiệp, chọn kèo cá độ, chia cắt, đóng, mở tài khoản cá độ của người chơi như tài khoản của Nguyễn Xuân D3 quản lý.
Tổng các tài khoản có số điểm cá cược là 15.946 điểm, thắng được 8.863 điểm, theo thỏa thuận Tô D được hưởng 8.000 đồng/1 điểm, tương ứng 70.904.000 đồng (Thực tế được hưởng 47.144.320 đồng); bị mất 5.075 điểm, Tô D phải trả 40.600.000đồng (thực tế trả 35.217.760đồng). Sau khi đối trừ thì Tô Tiến D được hưởng số tiền 11.926.560 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 19-5-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã quyết định:
Áp dụng điểm c Khoản 2, Khoản 3 Điều 322; Điểm s, t Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; khoản 1 điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Bị cáo Tô Tiến D 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.
Áp dụng điểm b, c Khoản 2, Khoản 3 Điều 321; Điểm s, t Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; khoản 1 điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt Bị cáo Đỗ Cao Ch 17 (Mười bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.
Áp dụng điểm b, c Khoản 2, Khoản 3 Điều 321; Điểm s, t Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; khoản 1 điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Bị cáo Nguyễn Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.
Áp dụng điểm b, c Khoản 2, Khoản 3 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51;
điểm g khoản 1 điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Bị cáo Đỗ Minh C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/6/2021 đến ngày 30/6/2021.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt của các bị cáo khác, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/5/2022, bị cáo Đỗ Cao Ch có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 27/5/2022, bị cáo Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.
Ngày 01/6/2022, bị cáo Tô Tiến D có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội danh và khung hình phạt không đúng. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét để xác định tội danh đúng người, đúng tội và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
Ngày 02/6/2022, bị cáo Đỗ Minh C có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Đỗ Cao Ch, Nguyễn Văn H xin rút đơn kháng cáo.
- Bị cáo Tô Tiến D cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội danh và khung hình phạt không đúng còn để lọt người phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để xác định tội danh đúng người, đúng tội và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm như sau: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy bản án sơ thẩm áp dụng áp dụng điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1 điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Tô Tiến D 48 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; Áp dụng điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Minh C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không có tình tiết gì đặc biệt mới để làm căn cứ đề nghị giảm án cho các bị cáo được đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Các bị cáo Đỗ Cao Ch, Nguyễn Văn H xin rút đơn kháng cáo. Xét thấy việc xin rút đơn kháng cáo của các bị cáo là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của pháp luật đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Đỗ Cao Ch và Nguyễn Văn H.
- Quan điểm bào chữa cho bị cáo Tô Tiến D của luật sư: Về hành vi phạm tội của bị cáo luật sư nhất trí. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử cần làm rõ vai trò của người tên H4, họ Lê và anh Nguyễn Anh T2, Nguyễn Văn C1 nhà ở dốc Y1, Y2, quận Y3, Hà Nội có liên quan gì đến vụ án này hay không? Nếu có thì vai trò của những người này thế nào? Sau khi phạm tội bị cáo Tô Tiến D đã ra đầu thú, trong thời gian được tại ngoại bị cáo đã cung cấp thông tin giúp Can thành phố X1, tỉnh Tuyên Quang phát hiện, bắt giữ đối tượng Nguyễn Mạnh H5. Do đó bị cáo được Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Trong quá trình thụ lý và xét xử phúc thẩm bị cáo xuất trình hóa đơn thể hiện bị cáo đã nộp 30.200.000đ (Ba mươi triệu hai trăm nghìn đồng) là tiền phạt và tiền án phí hình sự sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nếu có căn cứ bỏ lọt tội phạm thì hủy bản án sơ thẩm, nếu không thì giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Bị cáo Tô Tiến D nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để xác định tội danh đúng người, đúng tội và không để lọt người.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ, Kiểm sát viên, thẩm phán và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.
[2] Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 19/5/2021 đến ngày 22/6/2021, tại các trận đấu giữa các cặp đội tuyển bóng đá của giải UEFAEURO 2021, giải vòng loại Worldcup Châu Á năm 2022 và các giải bóng đá thế giới, giải bóng đá trong nước, Tô Tiến D đã cấp cho Đỗ Cao Ch và Nguyễn Xuân D3 01 tài khoản cá độ bóng đá cấp đại lý ký hiệu “TVCHD1” để D3 và Ch chia cắt thành tài khoản nhỏ, giao cho người chơi sử dụng đánh bạc. Sau đó, Ch đã chỉ đạo D3 cắt và giao cho Nguyễn Văn H 02 tài khoản người chơi để cá độ là “TVCHD101001 và TVCHD1002”. H giao cho Chu Văn C2 quản lý và sử dụng tài khoản “TVCHD 101001”. Nguyễn Xuân D3 còn cắt và giao 02 tài khoản cho Đỗ Minh C gồm “TVCHD105007 và DTE262040002”, giao cho Thạch Ngọc L4 tài khoản “TVCHD103001” và Lê Xuân Th2 tài khoản “TVCHD10406”. C2, H, C, L4, Th2 sử dụng mạng Internet để đăng nhập các tài khoản này chọn trận đấu giữa các cặp đội tuyển, chọn kèo cá độ, chọn điểm cược và theo dõi thắng thua.
Sau khi được cấp tài khoản thì Chu Văn C2 đã sử dụng để cá độ tổng số 02 trận số tiền dùng đánh bạc là 66.000.000 đồng và 57.100.000 đồng, còn lại 46 trận số tiền từ 5.000.000 đồng đến 45.900.000 đồng. Tiền thắng thua cá độ thì Nguyễn Văn H thanh toán với Nguyễn Xuân D3. Quá trình sử dụng tài khoản cá độ H đã cho C2 số tiền 4.500.000 đồng.
Ngoài ra, Nguyễn Văn H còn sử dụng tài khoản TVCHD101002 để cá độ 14 trận đấu bóng đá giữa các cặp đội tuyển, trong đó có 03 trận số tiền đánh bạc trên 50.000.000 đồng, có 10 trận số tiền từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng cả 02 tài khoản để cá độ với tổng số là 5 lần số tiền dùng đánh bạc trên 50.000.000 đồng và tổng số 56 lần số tiền dùng đánh bạc trên 5.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng.
Đỗ Minh C sử dụng 02 tài khoản để cá độ bóng đá và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạc với 02 trận số tiền trên 50.000.000 đồng và 29 trận số tiền cá độ trên 5.000.000 đồng dưới 50.000.000 đồng.
Ngoài ra, Đỗ Minh C còn nhận kèo cá độ bóng đá qua tin nhắn facebook với Nguyễn Văn T3, số tiền dùng đánh bạc là 18.400.000 đồng.
Đỗ Cao Ch và Nguyễn Xuân D3 có vai trò đồng phạm, đều là người thực hành tích cực như nêu trên. Số tiền thắng, thua Ch và D3 thanh toán theo tỷ lệ Ch 80% và D3 20%. Cả hai phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng các lần đánh bạc của Nguyễn Văn H, Đỗ Minh C, Thạch Ngọc L4 và Lê Xuân Th2. Nếu các trận trùng nhau thì phải chịu tổng các kèo mà các bị cáo đặt cược. Như vậy, Nguyễn Xuân D3 và Đỗ Cao Ch phải chịu trách nhiệm hình sự 12 lần số tiền đánh bạc trên 50.000.000 đồng và 88 lần số tiền đánh bạc từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Tô Tiến D sau khi giao tài khoản cấp đại lý cho Đỗ Cao Ch thì được Nguyễn Xuân D3 cấp cho 01 tài khoản phụ để theo dõi tài khoản người chơi, xem kết quả các trận đấu, số điểm cá cược, mức đặt cược và tỷ lệ thắng thua giữa Nguyễn Xuân D3 và các con bạc. Tô Tiến D chỉ theo dõi được tổng điểm thắng thua mà không can thiệp, chọn kèo cá độ, chia cắt, đóng, mở tài khoản cá độ của người chơi. Hình thức thanh toán kết thúc giải thì các bên thanh toán cho nhau. Như vậy, có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo Tô Tiến D đã phạm vào tội “Tổ chức đánh bạc” với tình tiết định khung hình phạt là Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo Đỗ Cao Ch, Nguyễn Văn H, Đỗ Minh C đã sử dụng mạng Internet để truy cập tài khoản cá độ, sử dụng phương tiện điện tử để phạm tội. Số tiền dùng đánh bạc của Ch, H, C trên 50.000.000 đồng nên Ch, H, C phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” với 2 tình tiết định khung hình phạt là “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên” và ”sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự.
[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy như sau: Tính chất vụ án tổ chức đánh bạc và đánh bạc là rất nghiêm trọng; Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
[3.1]. Đối với bị cáo Tô Tiến D, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra trong thời gian được tại ngoại bị cáo đã cung cấp thông tin giúp Công an thành phố X1 tỉnh Tuyên Quang phát hiện, bắt giữ đối tượng Nguyễn Mạnh H5, sinh năm 1965, ở tổ dân phố 2, phường Y4, TP X1 có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và Cơ quan công an TP X1 đã khởi tố vụ án và khởi tố bị can, ngày 24/12/2021 Công an thành phố X1, tỉnh Tuyên Quang có công văn số 4269/CATP đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xem xét cho D3 được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt trong quá trình xét xử vụ án. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, xong bị cáo có 01 tiền sự về hành vi cố ý gây thương tích và nhân thân đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc để xem xét quyết định về hình phạt đối với bị cáo.
Trong quá trình thụ lý và xét xử phúc thẩm bị cáo xuất trình hóa đơn thể hiện bị cáo đã nộp 30.200.000đ tiền phạt và tiền án phí sơ thẩm hình sự.
[3.2]. Đối với bị cáo Đỗ Minh C: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Minh C có hai lần thực hiện hành vi đánh bạc trở lên nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Trong quá trình thụ lý và xét xử phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tài liệu nào đặc biệt mới để làm căn cứ xem xét xin giảm hình phạt.
[4]. Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy:
[4.1]. Mặc dù trong quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo Tô Tiến D xuất trình hóa đơn thể hiện bị cáo đã nộp 30.200.000đ (Ba mươi triệu hai trăm nghìn đồng) tiền phạt và tiền án phí sơ thẩm hình sự, giấy biên nhận nhặt được của rơi đã trả lại cho người mất, có xác nhận của Công an xã Y5, thành phố X1 và tại phiên tòa bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội danh và khung hình phạt không đúng còn để lọt người, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để xác định tội danh đúng người, đúng tội.
Tuy nhiên, hành vi của bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đúng tội danh và khung hình phạt, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả để lại cho xã hội là rất lớn. Mức hình phạt 04 (bốn) năm tù đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng với tính chất hành vi vai trò phạm tội của bị cáo, do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như quan điểm bào chữa của luật sư tại phiên tòa phúc thẩm.
[4.2]. Đối với bị cáo Đỗ Minh C được Nguyễn Xuân D3 cung cấp cho 02 tài khoản để bị cáo tự cá độ bóng đá với D3, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Minh C 36 tháng tù là đúng với tính chất, vai trò của bị cáo. Trong quá trình thụ lý và xét xử phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tài liệu nào đặc biệt mới để làm căn cứ xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
Do đó Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo Tô Tiến D, Đỗ Minh C giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[4.3]. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Đỗ Cao Ch và Nguyễn Văn H.
[5]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Tô Tiến D, Đỗ Minh C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các bị cáo Đỗ Cao Ch và Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm a, đ khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Đỗ Cao Ch và Nguyễn Văn H.
Giữ nguyên quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đối với các bị cáo Đỗ Cao Ch và Nguyễn Văn H.
2. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của các bị cáo Tô Tiến D, Đỗ Minh C; Giữ nguyên quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.
Tuyên bố bị cáo Tô Tiến D phạm tội “Tổ chức đánh bạc”. Bị cáo Đỗ Minh C phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Tô Tiến D 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.
Xác nhận bị cáo Tô Tiến D đã thi hành xong hình phạt tiền và án phí sơ thẩm hình sự là 30.200.000đ (Ba mươi triệu hai trăm nghìn đồng) được thể hiện tại Biên lai thu tiền số AA/2020/0000283 ngày 13 tháng 10 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Minh C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/6/2021 đến ngày 30/6/2021.
3. Về án phí: Các bị cáo Tô Tiến D, Đỗ Minh C mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các bị cáo Đỗ Cao Ch, Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 137/2023/HS-PT về tội tổ chức đánh bạc (hính thức cá độ bóng đá)
Số hiệu: | 137/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về