TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 137/2019/HSPT NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 93/2019/TLPT-HS ngày 22 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Đặng Thị L, do có kháng cáo của bị cáo Đặng Thị L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2019/HSST ngày 19/06/2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh;
* Bị cáo kháng cáo: Họ và tên: Đặng Thị L; sinh ngày 15/10/1974 tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Xuân L và bà Nguyễn Thị C; có chồng Trần Ngọc L (đã chết) và 02 con (đứa đầu sinh năm 1995, đứa út sinh năm 1999); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/12/2018 đến ngày 24/12/2018 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn C; sinh năm: 1988; trú tại: Thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Anh Đặng Anh T; sinh năm: 1984; trú tại: Thôn C, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh;Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 21/12/2018, Đặng Thị L điều khiển xe máy mang Biển kiểm soát 38P1-1580 của Đặng Anh T (em trai L), đi lên khu vực Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo để làm thuê. Tại đây L gặp một người đàn ông không rõ tên và địa chỉ. Người này nói với L nếu chở 03 thùng bìa các tông bên trong đựng pháo đi đến bến xe khách H ở thị trấn P, huyện H thì sẽ trả tiền công cho L 3.500.000 đồng. L đồng ý và trực tiếp kiểm tra số pháo trong 03 thùng và nhận số tiền công 3.500.000 đồng. Nhận tiền xong, L điều khiển xe máy chở 03 thùng các tông đựng pháo trên đi về nhà cất dấu. Đến chiều cùng ngày, L gọi điện thoại cho anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1988, trú tại xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh làm nghề lái xe taxi để chở L đi có việc. Một lúc sau, anh C điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát 38A-16983 đi đến nhà L. L không nói với anh C chở pháo mà nói có 03 thùng bìa các tông bảo anh C đưa lên xe để chở đi cùng với L đến bến xe khách H ở thị trấn P, huyện H.
Khoảng 19 giờ 15 phút cùng ngày, khi anh C điều khiển xe ô tô chở Đặng Thị L đi đến khu vực bến xe khách H thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang và thu giữ 20 khối dạng hình hộp, mỗi khối có kích thước (14,5 x 14,5 x 20) cm; 05 khối dạng hình hộp, mỗi khối có kích thước (14 x 14 x 10) cm và 06 gói ni lông tương đồng nhau, bên trong có chứa các viên hình cầu, kích thước và hình dạng như nhau nhưng nhiều màu sắc khác nhau, mỗi viên hình cầu được gắn với sợi dây màu xanh.
Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng bao gồm: 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, biển kiểm soát 38A-16983; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, mang biển kiểm soát 38P1-1580 (đã trả lại cho chủ sở hữu); Số tiền 3.500.000 đồng.
Tại Bản thông báo kết quả giám định số 51/GĐP-C09, ngày 24/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận:
- 20 khối hộp giấy ngoài có hoa văn nhiều màu sắc và có chữ nước ngoài, kích thước mỗi khối hộp (14,5 x 14,5 x 20) cm, bên trong mỗi khối hộp có 09 vật hình trụ bọc giấy liên kết với nhau gửi giám định là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 49,8 kg.
- 05 hộp hình khối, mặt ngoài mỗi hộp có hoa văn nhiều màu sắc và có chữ nước ngoài, kích thước mỗi khối hộp (14 x 14 x 10) cm, bên trong khối hộp có 36 vật hình trụ, bọc giấy liên kết với nhau gửi giám định là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 5,6 kg.
- Các viên hình cầu nhiều màu sắc, đường kính mỗi viên 2,5cm, trên mỗi viên đều gắn đoạn dây xanh được đựng trong 06 túi ni lông gửi đến giám định là pháo nổ, có khối lượng là 03 kg.
Tại Bản án số 31/2019/HSST ngày 19-6-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh đã áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Thị L phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”. Xử phạt bị cáo Đặng Thị L 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ thời hạn đã tạm giữ từ ngày 21/12/2018 đến ngày 24/12/2018.
Ngoài ra, án còn tuyên án phí, biện pháp tư pháp và quyền kháng cáo của bị cáo.
Ngày 26/6/2019, bị cáo Đặng Thị L kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Đặng Thị L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 31/2019/HSST ngày 19-6-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục luật định, đều hợp pháp.
[2] Bị cáo kháng cáo Đặng Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như án sơ thẩm đã tuyên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ. Do đó có căn cứ khẳng định Bản án Hình sự sơ thẩm số 31/2019/HSST ngày 19-6-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh đã tuyên đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý vật liệu nổ của Nhà nước, đe dọa nghiêm trọng đến trật tự, an toàn công cộng, cũng như tính mạng, sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý.
[3] Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét xử bị cáo mức án khởi điểm khung hình phạt là đã xem xét, chiếu cố cho bị cáo. Tuy nhiên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan chức năng có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm; đã nộp tiền thu lợi bất chính; bố thương binh hạng 2/4, mẹ bị cáo được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất; hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, chồng đã mất, một mình bị cáo nuôi các con đang tuổi ăn học, bản thân đau ốm thường xuyên, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét cho bị cáo cải tạo tại địa phương để có điều kiện chăm sóc gia đình, con cái.
Vì vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Thị L.
Về án phí: Bị cáo Đặng Thị L không phải chịu án phí HSPT.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
1. Chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Đặng Thị L. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 31/2019/HSST ngày 19-6-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh về biện pháp chấp hành hình phạt.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 191; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Thị L phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”.
- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Thị L 24 (hai bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 BLTTHS 2015, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 23/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đặng Thị L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 137/2019/HSPT ngày 22/10/2019 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 137/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về