TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 137/2017/DSPT NGÀY 15/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 15/11/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 151/2017/TLPT - DS ngày 18 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản và hợp đồng họ”. Do Bản án sơ thẩm số: 30/2017/DSST ngày 06/9/2016 của Toà án nhân dân huyện KN bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2017/QĐXX-PT ngày 31/11/2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1 Bà Lê Thị Lệ A; địa chỉ thôn GT, xã TG, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
1.2 Bà Hồ Thị Ngọc B; địa chỉ thôn GT, xã TG, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk.
Có mặt.
1.3 Hồ Thị C; địa chỉ thôn GT, xã TG, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Văn Thị D; địa chỉ thôn GT, xã TG, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
* Người kháng cáo bà Văn Thị D là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 04/7/2017, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải bà Lê Thị Lệ A, trình bày:
Tôi và bà Văn Thị D có mối quan hệ hàng xóm với nhau, bà D là chủ huê hụi nên năm 2917 tôi có mua hai chân huê của bà D và bà D có vay tiền của tôi, cụ thể:
-Ngày 19/02/2017 tôi mua chân huê số tiền 19.320.000 đồng, ngày 09/9/2017 trút ống (Tức ngày bà D trả tiền cho tôi) số tiền 23.000.000 đồng (cả gốc và lãi).
- Ngày 06/3/2017 tôi mua tiếp chân huê số tiền 29.950.000 đồng ngày 06/12/2017 trút ống (Tức ngày bà D trả tiền cho tôi) số tiền 36.000.000 đồng (cả gốc và lãi).
Khi mua huê của bà D thì giữa chúng tôi có lập giấy mua bán, bà D là người ký trực tiếp bán huê cho tôi, nhưng chưa đến thời hạn trút ông (trả tiền cho tôi) thì bà D đã bị bể huê hụi.
- Ngày 04/4/2017Âl bà D có mượn của tôi số tiền 80.000.000 đồng, khi vay bà D có viết giấy vay tiền, thời hạn 10 ngày, không thỏa thuận lãi suất, nhưng đến hạn thanh toán nợ bà D không chịu thanh toán cho tôi, mặc dù tôi đã yêu cầu nhiều lần.
Do vậy, tôi làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà D phải thanh toán cho tôi tổng số tiền 129.720.000 đồng, tôi không yêu cầu tính lãi.
* Trong đơn khởi kiện các lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hồ Thị Ngọc B, trình bày:
Tôi và bà Văn Thị D quan hệ là làng xóm với nhau, bà D là chủ huê hụi, nên ngày 18/02/2017 tôi có mua của bà D một chân huê số tiền 17.955.000 đồng, bà D có viết giấy bán huê. Thỏa thuận sau 07 tháng bà D trút ống huê (Trả lại) cho tôi số tiền 21.000.000 đồng cả gốc và lãi. Tuy chưa đến ngày trút ống huê thì bà D đã bị bể huê, hụi. Dô vậy, tôi làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà D phải thanh toán lại cho tôi số tiền 17.955.000 đồng, tôi không yêu cầu tính lãi.
* Trong đơn khởi kiện các lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hồ Thị C, trình bày:
Tôi có buôn bán ở chợ nên có quen biết bà D là chủ huê hụi, nên tôi có mua của bà D ba chân huê, bà D có viết giấy bán huê cho tôi, cụ thể:
- Ngày 21/01/2017, tôi mua số tiền 18.310.000 đồng đến ngày 23/5/2017 trút ống huê bà D phải thanh toán cho tôi số tiền 20.000.000 đồng; đồng(cả gốc và lãi);
-Ngày20/02/2017, tôi mua tiếp số tiền 17.640.000 đồng đến ngày 13/9/2017 trút ống huê bà D phải thanh toán cho tôi số tiền 21.000.000 đồng(cả gốc và lãi);
- Ngày 15/3/2017, tôi mua tiếp số tiền 18.500.000 đồng đến ngày 16/7/2017 trút ống huê bà D phải thanh toán cho tôi số tiền 20.000.000 đồng (cả gốc và lãi);
Tổng số tiền tôi đã mua huê của bà D là 54.450.000 đồng Số tiền huê đến ngày trút bà D cũng chưa thanh toán cho tôi và số huê chưa đến ngày trút thì bà D đã bị bể huê hụi. Do vậy, tôi làm đơn đề nghị Tòa giải quyết buộc bà D phải thanh toán cho tôi số tiền là 54.450.000 đồng, tôi khôngyêu cầu tính lãi.
* Bị đơn bà Văn Thị D tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, bà D trình bày:
đúng.
Công nhận lời khai của bà Lê Thị Lệ A, Hồ Thị Ngọc B và bà Hồ Thị C là + Tôi là chủ huê hụi nên tôi có bán huê cho bà A số tiền là 49.720.000 đồng và đã nhận đủ, số tiền này tôi đưa lại cho một số chị em trong huê hụi vay lại. Ngày 04 tháng 4 năm 2017 Âl (tức ngày 29/4/2017 dl), tôi có vay của bà A số tiền 80.000.000 đồng, không thoả thuận thời gian, lãi suất thỏa thuận bằng miệng 9%/tháng. Trong giấy vay tiền ghi “…hẹn 10 ngày trả …”, được hiểu 10 ngày trả lãi chứ không phải trả nợ gốc, tôi đã thanh toán một số lãi cho bà A, nhưng không nhớ cụ thể. Nay bà A khởi kiện yêu cầu tôi thanh toán số tiền 129.720.000 đồng (cả huê và tiền vay), tôi chấp nhận nhưng tôi xin thanh toán cho bà A trong 04 năm, cụ thể:
- Ngày 30/12/2018 thanh toán 30.000.000 đồng.
- Ngày 30/12/2019 thanh toán 30.000.000 đồng.
- Ngày 30/12/2020 thanh toán 30.000.000 đồng.
- Ngày 30/12/2021 thanh toán 39.270.000 đồng.
+ Đối với số tiền của bà Hồ Thị C, công nhận tôi có bán cho bà C 03 chân huê tổng số tiền là 54.450.000 đồng, tôi có viết giấy bán huê và đã nhận đủ tiền, tôi đã đưa số tiền này cho một số con huê khác vay lại. Nay bị bể huê hụi, tôi không thanh toán ngay cho bà C được, do vậy tôi xin được thanh toáncho bà C trong hai năm, cụ thể:
- Ngày 30/12/2018 thanh toán 27.225.000 đồng.
- Ngày 30/12/2019 thanh toán 27.225.000 đồng.
+ Đối với số tiền của bà Hồ Thị Ngọc B, công nhận tôi có bán cho bà B 01 chân huê số tiền là 17.955.000 đồng, tôi có viết giấy bán huê và đã nhận đủ tiền, tôi đã đưa số tiền này cho một số con huê khác vay lại. Nay bị bể huê hụi, tôi không thanh toán ngay cho bà B được, do vậy tôi xin được thanh toán cho bà B số tiền này vào ngày 30/12/2018.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2017/DSST ngày 06/9/2017 của Toà án nhân dân huyện Krông Năng đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144, Điều 147 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015;
Áp dụng Điều 463; Điều 465; Điều 466; Điều 471 Bộ Luật Dân sự 2015;
Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Lệ A, Hồ Thị Ngọc B và bà Hồ Thị C.
Buộc bà Văn Thị D phải trả cho bà Lê Thị Lệ A số tiền 129.720.000 đồng (trong đó: Tiền huê là 49.270.000 đồng, tiền vay là 80.000.000 đồng); trả cho bà Hồ Thị Ngọc B số tiền 17.955.000 đồng; trả cho bà Hồ Thị C số tiền 54.450.000 đồng.
Áp dụng Điều 357 BLDS năm 2015 để tính lãi suất đối với khoản tiền chậm thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 19/9/2017 bị đơn Văn Thị C làm đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2017/DSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện KN xin được thanh toán số tiền của bà A, bà C và bà B trong nhiều năm.
Ngày 29/9/2017 bà Văn làm đơn kháng cáo bổ sung xin miễn giảm án phí do có hoàn cảnh khó khăn, gia đình bà thuộc hộ cận nghèo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:
+ Về tố tụng: Người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
+ Về nội dung: Việc bà D kháng cáo xin được thanh toán số tiền của bà A, bà C và bà B trong nhiều năm là không có căn cứ chấp nhận. Việc bà D kháng cáo xin được miễn giảm án phí do gia đình bà có hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ cận nghèo được UBND xã TG xác nhận là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308; Điều 309 BLTTDS năm 2015, sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2017/DSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần án phí. Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bà D về việc miễn giảm án phí, bác một phần đơn kháng cáo của bà D về việc xin thanh toán số tiền nợ của bà A, bà B và bà C chia làm nhiều lần trong nhiều năm.
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu thu thập được lưu trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của bà Văn Thị D về việc xin thanh toán số tiền của bà Lê Thị Lệ A trong 04 năm từ năm 2018 đến năm 2021, của bà Hồ Thị C trong 02 năm 2018, năm 2019 và của bà Hồ Thị Ngọc B vào năm 2018 là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay bà A, bà C và bà B không đồng ý.
[2] Xét kháng cáo của bà D về việc xin miễn giảm án phí dân sự có giá ngạch, Hội đồng xét xử xét thấy bà D có đơn xin miễn giảm án phí do hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ cận nghèo của năm 2017 và được UBND xã TG huyện KN xác nhận. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án nên kháng cáo của bà D là có căn cứ được chấp nhận. Do miễn giảm toàn bộ án phí dân sự có giá ngạch cho bà Văn Thị D, căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 BLTTDS sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2017/DSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần án phí.
[3] Về án phí:
* Về án phí sơ thẩm: Bà D là người có lỗi nên bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, song hoàn cảnh gia đình bà D thuộc hộ cận nghèo năm 2017 có đơn xin miễn giảm được UBND xã TG xác nhận. Hội đồng xét xử nên miễn giảm toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bà D.
* Về án phí phúc thẩm: Do được chấp nhận một phần đơn kháng cáo nên bà D không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 BLTTDS năm 2015. Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bà Văn Thị D.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 20/2017/DSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần án phí.
Áp dụng Điều 463; Điều 465; Điều 466; Điều 471 Bộ luật dân sự 2015;
Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Lệ A, Hồ Thị Ngọc B và bà Hồ Thị C.
Buộc bà Văn Thị D phải trả cho bà Lê Thị Lệ A số tiền 129.720.000 đồng (trong đó: Tiền huê là 49.270.000 đồng, tiền vay là 80.000.000 đồng); trả cho bà Hồ Thị Ngọc B số tiền 17.955.000 đồng; trả cho bà Hồ Thị C số tiền 54.450.000 đồng.
Áp dụng khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015 để tính lãi suất đối với khoản tiền chậm thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án.
2. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bà Văn Thị D, gia đình bà D thuộc hộ cận nghèo năm 2017 có đơn xin miễn giảm án phí được UBND xã TG, huyện KN, tỉnh Đăk Lắk xác nhận.
+ Hoàn trả cho bà Lê Thị Lệ A số tiền 3.231.000 đồng đã nộp tạm ứng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện KN theo biên lai số: AA/2016/0002533 ngày 13/7/2017.
+ Hoàn trả cho bà Hồ Thị Ngọc B (Hồ Thị C nộp thay) số tiền 449.000 đồng đã nộp tạm ứng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện KN theo biên lai số: AA/2016/0002536 ngày 13/7/2017.
+ Hoàn trả cho bà Hồ Thị C số tiền 1.441.000 đồng đã nộp tạm ứng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện KN theo biên lai số: AA/2016/0002535 ngày 13/7/2017.
- Về án phí phúc thẩm: Bà Văn Thị D không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Văn Thị D số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện KN theo biên lai số: AA/2016/0002482 ngày 29/9/2017.
Các quyết định khác của Bản án không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 137/2017/DSPT ngày 15/11/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 137/2017/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về