Bản án 136/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 136/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn V, sinh năm 1966 tại tỉnh Thái Nguyên; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Xóm Gốc Vối 2, xã C, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Văn Nho (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị Sửu, sinh năm 1938; Vợ: Nguyễn Kim Anh, sinh năm 1967; Có 03 con; Con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 2004. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 10/1996/HSST ngày 09/02/1996 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân.

Tại bản án số 10/1998/HSST ngày 13/01/1998 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản Công dân.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Trọng L, sinh năm 1962; ĐKHKTT: Xóm Gốc Vối 2, xã C, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1968; ĐKHKTT: Xóm Cổ Rùa, xã C, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 23/12/2020 tổ công tác của Công an xã Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Gốc Vối 1, xã Cao Ngạn, TP Thái Nguyên đã phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vũ Văn V về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 02 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng ( V khai là ma túy Heroine) do V tự giác lấy từ túi bên trái của áo khoác đang mặc giao nộp cho tổ công tác và 01 xe mô tô BKS 20F9-7141.

Tiến hành cân số khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Văn V có khối lượng là 0,143 gam. Tại kết luận giám định số 9341/C09-TT2 ngày 31/12/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Chất bột màu trắng ký hiệu V là ma túy loại heroine.

Vật chứng của vụ án là: 01 bì niêm phong ký hiệu 9341/C09-TT2 là ma túy và vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên; 01 xe mô tô nhãn hiệu JIALING BKS 20 F9-7141, màu sơn nâu, số máy FMG2*008082, số khung 0041D*008082 đã qua sử dụng hiện đã được trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Trọng Long.

Tại bản cáo trạng số 114/CT-VKSTPTN ngày 18/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Vũ Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 23/12/2020 Bị cáo mượn xe mô tô BKS 20F9- 7141 của anh rể là Nguyễn Trọng Long đi từ nhà đến khu vực xóm Giềng, xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ để tìm 01 người tên Hùng để mua ma túy sử dụng. Bị cáo đưa cho Hùng 100.000 đồng, Hùng đưa cho V 02 gói giấy màu trắng bên trong có heroine dạng chất bột màu trắng, bị cáo đút vào túi bên trái của áo khoác đang mặc sau đó lái xe đi tìm nơi vắng vẻ để sử dụng ma túy. Đến khoảng 13 giờ 30 phút khi về đến xóm Gốc Vối 1 thì Bị cáo bị Công an xã Cao Ngạn kiểm tra, phát hiện bắt quả tang việc bị cáo đang cất giấu ma túy. Bị cáo không có ý kiến gì về hành vi tố tụng và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại xe mô tô BKS 20F9- 7141 cho ông Nguyễn Trọng Long quản lý sử dụng bị cáo nhất trí, không đề nghị gì khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày: Ông Long là anh rể bị cáo Vũ Văn V, ngày 23/12/2020 ông cho bị cáo mượn xe mô tô BKS 20F9- 7141 để đi lại nhưng không biết việc bị cáo sử dụng xe mô tô của ông để đi mua ma túy về sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã trả lại xe mô tô BKS 20F9- 7141 cho ông quản lý sử dụng. Nay ông Long không đề nghị gì khác.

Trong phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Vũ Văn V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng là 01 bì niêm phong số 9341/C09-TT2 và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, nhất trí với các đánh giá tại Bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng bị cáo có thái độ thành khẩn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo đã nhiều tuổi, vì nghiện ma túy không bỏ được mà dẫn đến phạm tội, đề nghị xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất để bị cáo được sớm về với gia đình, xã hội.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các thủ tục, trình tự tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tại phiên tòa vắng mặt người chứng kiến. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều đề nghị xét xử vắng mặt người chứng kiến. Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt ông Thái không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án do đó căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người chứng kiến tại phiên tòa.

[2] Qua đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 23/12/2020 tại khu vực xóm Gối Vối 1, xã Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên, Vũ Văn V có hành vi tàng trữ 0,143 gam ma túy loại Heroine thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Bị cáo là người nghiện ma túy, tàng trữ trái phép ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân.

Xét động cơ, mục đích phạm tội, khối lượng chất ma túy tàng trữ, thì hành vi của bị cáo Vũ Văn V đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định. “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:

a....., b......c, Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Vũ Văn V về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, góp phần gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tự mình thực hiện hành vi phạm tội, không có đồng phạm khác.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên bị cáo đã hai lần bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản công dân. Bị cáo đủ nhận thức để hiểu rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và xã hội, nhưng do nghiện ma túy nhiều năm không cai nghiện được dẫn đến có hành vi phạm tội.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề xuất áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nhiều năm, nghề nghiệp làm ruộng, không có thu nhập ổn định, sống phụ thuộc gia đình vợ con, tại địa phương không có tài sản gì. Do đó Đại diện viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là có cơ sở.

[7] Về vật chứng: 01 bì niêm phong ký hiệu 9341/C09-TT2 là ma túy hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Về chiếc xe mô tô BKS 20F9- 7141 Quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Trọng Long không biết việc bị cáo mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho ông Long quản lý sử dụng là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, ông Long không có đề nghị gì khác đối với bị cáo, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Người đàn ông tên Hùng mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, qua điều tra xác định là Lưu Quang H, sinh năm 1979; ĐKHKTT tại xóm Luông, xã Huống Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Do chưa đủ căn cứ xác định Hùng đã bán ma túy cho V nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS; Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Vũ Văn V 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 23/12/2020.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam Bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 9341/C09-TT2 bên trong chứa ma túy, mặt sau phong bì có 05 dấu tròn của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, có chữ ký của Ngô Hoàng Đạo, Đặng Thị Thủy.

(Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 247 ngày 09/3/2021 giữa Chi cục Thi hành dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an TP Thái Nguyên).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 136/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;