Bản án 136/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 136/2020/HS-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 146/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 166/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan Trí Tuấn A, sinh năm 1994 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký thường trú: 30 L, phường X, thành phố V, tỉnh B; Nơi ở: 59/9A L, phường X, thành phố V, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phan Tuấn N, Mẹ: Trần Nguyệt N; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 17-3-2020, bị Công an phường 2, thành phố Vũng Tàu xử phạt 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 1582/QĐ-XPHC, đã nộp tiền ngày 25 – 3 – 2020.

Bị bắt ngày 13 – 4 – 2020 (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 35 phút, ngày 13 – 4 – 2020, tại nhà số 59/9A L, phường X, thành phố V, Công an phường 2, thành phố Vũng Tàu phát hiện bắt quả tang Phan Trí Tuấn A đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine).

Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Công an phường 2, thành phố Vũng Tàu đã chuyển đối tượng, hồ sơ vụ án cùng vật chứng, tài sản thu giữ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu để điều tra theo thẩm quyền.

Tại cơ quan điều tra, Tuấn A khai nhận: Tuấn A sử dụng ma túy từ năm 2014. Trước khi bị bắt khoảng 3 đến 4 ngày, Tuấn A có mua 01 gói ma túy đá của một đôi nam nữ (không rõ lai lịch) tại khu vực phường 2, thành phố Vũng Tàu để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang như trên (Bút lục điều tra từ số 16 đến số 23).

Tại Bản kết luận giám định số 184/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 17 tháng 4 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường 2 - CATP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Thế Nam, Nguyễn Tiến Đạt, Phan Trí Tuấn A, Nguyễn Dương Anh Kiệt gửi đến giám định có khối lượng 0,1917 gam là ma túy, loại Methamphetamine (bút lục điều tra số 42).

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng thu giữ của 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, qua giám định là Methamphetamine, có khối lượng 0,1917 gam (gói niêm phong số 184 ngày 17 – 4 – 2020); 01 điện thoại di động Nokia, màu đen, số Imel: 355760101241131. Số vật chứng nêu trên được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 156/CT-VKSTPVT ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Phan Trí Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Phan Trí Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Trí Tuấn A từ 12 đến 18 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia, màu đen, số Imel: 355760101241131 vì không liên quan đến hành vi phạm tội; Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc làm ổn định, không có thu nhập nên đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Phan Trí Tuấn A đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Trí Tuấn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 19 giờ 35 phút, ngày 13 – 4 – 2020, Phan Trí Tuấn A có hành vi tàng trữ trái phép 0,1917gam ma túy, loại Methaphetamine để sử dụng cho bản thân. Hành vi do bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với đôi nam nữ không rõ lai lịch bán ma túy cho Tuấn A tại khu vực phường 2, thành phố Vũng Tàu, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là con nghiện, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là con nghiện, không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật của vụ án.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imel 355760101241131 vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Phan Trí Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Phan Trí Tuấn A 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 184 ngày 17 - 4 - 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imel: 355760101241131.

Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 152/BB.THA ngày 16 tháng 6 năm 2020.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phan Trí Tuấn A phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 136/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;