TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 136/2017/HSST NGÀY 17/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 17/7/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nộ i xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số134/2017/HSST ngày 02/6/2017 đối với b ị cáo:
Trần Văn T, sinh 1996; Giới tính: Nam; ĐKNKTT:thôn Ba Nhà, xã Sơn Nam, huyệnSơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp : Không; Trình độ văn hoá: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo : Không; Bố : Trần Văn T, sinh 1974; Mẹ: Lê Thị C, sinh 1978;Danh chỉ bản số 00232 lập ngày 20/3/2017 tại Công an quận Nam Từ Liêm;
Nhân thân: Ngày 17/12/2010, bị đưa vào trường giáo dưỡng 18 tháng vềhành vi “Cướp giật tài sản; Trộm cắp tài sản”;
Tiền án : Bản án số 01/2016/HSST ngày 21/01/2016, Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tộ i “ Môi giới mại dâm”. Ra trại ngày 24/01/2017;
Tạm giam ngày 08/3/2017 (Có mặt).
Người bị hại: Anh Bùi Văn H. sinh 1987. Đ ịa chỉ: Số 18, ngõ 2 Tân Mỹ, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nộ i(vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 05/3/2017, Trần Văn T làm nhân viện thử việc tại phòng bán vé máy bay của anh Bùi Văn H tại số 18, ngõ 2 Tân Mỹ, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nộ i. Để thuận tiện cho việc giao dịch anh H cho T mượn 01 điện thoại d i động nhãn hiệu Iphone 5S màu đen xám, ngoài ra anh H còn cho T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 C1 màu đen để sử dụng.
Khoảng 19h ngày 07/3/2017, anh H nhờ T đến trông nhà để cùng gia đình đi thăm người bạn b ị ốm. Sau khi anh H cùng gia đình đi ra khỏ i nhà thì T nảy sinh ý đ ịnh trộm cắp tài sản. T lục tìm trong tủ quần áo phát hiện 01 con lợn bằng đất nung bên trong có tiền, T liền đập vỡ con lợn và lấy toàn bộ tiền bên trong cho vào túi xách. Sau đó, T lấy tiền để trên bàn thờ thần tài cùng 01 chiếc điện thoại Nokia 6700 màu vàng, 01 điện thoại Nokia 101 màu đỏ đen bên trong có Sim điện thoại ở giường ngủ.
Đến khoảng 19h15 cùng ngày, anh H gọi điện thoại bảo T đến số nhà 21Nguyễn Xiển, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nộ i gặp anh Dương Văn A để lấy 10. 920.000 đồng tiền vé máy bay. T đến địa chỉ trên và nhận của anh A 10.900.000 đồng ( do không có tiền lẻ để trả lại nên T chỉ lấy của anh A10.900.000đ). Sau khi nhận được tiền, T không trả anh H mà tắt máy điện thoại gọi xe Taxi (Không nhớ hãng và BKS) đến thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Trến đường đi T bỏ toàn bộ số tiền chiếm đoạt, ra đếm được 25.550.000 đồng.
Khoảng 21h cùng ngày, T đến nhà trọ của anh Phan Văn Th ở làng Bầu, khu hành chính 15 phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Tại đây, T cho Th vay 20.000.000 đồng nhưng sau đó T lấy lại 500.000 đồng. Số tiền còn lại T chi tiêu hết 1.850.000 đồng.
Ngày 08/03/2017, thông qua gắn đ ịnh vị Ic loud từ chiếc điện thoại Iphone 5S, anh H đã tìm đến phòng trọ của anh Phan Văn Th ở làng Bầu, khu hành chính 15 phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc nơi T đang trốn.
Tại đây, anh H nó i đã trình báo Công an Phường Mỹ Đình 1 nên khoảng 20h cùng ngày, T đến Công an Phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để đầu thú.
Vật chứng thu giữ bao gồm: 01 đ iện thoại Iphone 5S màu đen xám, 01 điện thoại Nokia 6700 màu vàng, 01 đ iện thoại Nokia 101, 106 màu đen và3.100.000 đồng.
Bản kết luận định giá tải sản số 68 ngày 09/03/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: 01 điện thoại di động Iphone 5s loại 16GB màu đen xám trị giá 2.500.000 đồng, 01 điện thoại Nokia C1 màu vàng trị giá 250.000 đồng, 01 điện thoại Nokia 101 màu đỏ đen trị giá 50.000 đồng,03 Sim đ iện thoại trị giá 75.000 đồng (25.000 đồng/ 01 Sim).
Tại Cơ quan Cảnh sát đ iều tra, anh H trình bày về số tài sản bị chiếm đoạt bao gồm: Tổng số tiền 55.920.000 đồng ( trong đó khoảng 43.000.000 đồng trong con lợn đất, khoảng 2.000.000 đồng trên bàn thờ th ần tài, 10.920.000 đồng là tiền bán vé máy bay anh H nhờ T đi lấy hộ) cùng 03 chiếc điện thoại di động trong đó 01 chiếc điện thoại di động Iphone 5S anh H cho T mượn để sử dụng trong công việc bán vé máy bay, 01 chiếc đ iện thoại Nokia 6700, 01 đ iện thoại Nokia 101 màu đen là tài sản của anh H.
Quá trình điều tra xác định T thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” của anh H tiền mặt (trong con lợn bằng đất nung, trên bàn thờ thần tài) là 14.650.000 đồng cùng 01 chiếc điện thoại d i độ ng Nokia 6700 màu vàng cùng Sim trị giá275.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia màu đỏ đen 101 cùng Sim trị giá 75.000 đồng. Tổng trị giá tài sản T trộm cắp là 15.000.000 đồng.
Ngoài hành vi trộm cắp thì Trần Văn T thực hiện hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của anh Bùi Văn H bao gồm: 10.900.000 đồng tiền mặt cùng 01 chiếc điện thoại Iphone 5S kèm theo thẻ Sim trị giá 2.525.000 đồng.
Ngày 08/03/2017, anh Phạm Văn Th đến Công an phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm giao nộp 19.500.000 đồng tiền vay của T, khi vay tiền anh Th không biết đó là tiền do anh T có hành vi vi phạm pháp luật mà có được nên Cơ quan công an không điều tra xử lý.
Ngày 24/3/2017, Cơ quan Cảnh sát đ iều tra Công an quận Nam Từ Liêm trao trả anh Bùi Văn H 01 điện thoại Iphone 5S màu đen xám, 01 đ iện thoại Nokia 6700 C1 màu vàng, 01 điện thoại Nokia 101 màu đỏ đen, 01 chiếc Sim điện thoại và 22.600.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản anh Bùi Văn H yêu cầu Trần Văn T bồi thường 33.320.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra Trần Văn T khai nhận hành vi phạm tội như trên. Cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 23/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã quyết định truy tốTrần Văn T về tộ i “Trộm cắp tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 138 và đ iểm a, khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tộ i, chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt;
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết đ ịnh truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo 15 – 18 tháng tù về tộ i “Trộm cắp tài sản” và 09 – 12 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Buộc bị cáo phải truy nộp 2.950.000đ tiền hưởng lợi bất chính để sung quỹ Nhà nước và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả phần tranh luận. Trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, bị cáo;
XÉT THẤY
Lời khai nhận về hành vi phạm tội của b ị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ được, các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:
+Khoảng 19h ngày 07/3/2017, tại số 18 ngõ 2 Tân Mỹ, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nộ i, Trần Văn T đã đã có hành vi lén lút chiếm đoạt14.650.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động Nokia 6700 trị giá 250.000 đồng,01 đ iện thoại d i động Nokia 101 trị giá 50.000 đồng và 02 s im đ iện thoại 50.000đ. Tổng trị giá tài sản T chiếm đoạt là 15.000.000 đồng.
+ Lợi dụng lòng tin của anh H, sau khi được anh H nhận vào thử việc tại phòng bán vé máy bay, anh H đã cho T mượn 01 điện thoại d i độngIphone 5S kèm theo simtrị giá 2.525.000đ để thuận tiện cho việc giao dịch.Cùng ngày 07/3/2017, sau khi nhận 10.900.000đ tiền vé máy bay của khách, T đã chiếm đoạt 01 điện thoại d i động nhãn hiệu Iphone 5Svà số tiền 10.900.000 đồng sau đó bỏ trốn.Tổng trị giá tài sản T chiếm đoạt là 13.425.000 đồng.Hành vi nêu trên của b ị cáo đã phạm vào các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ’’. Phạm vào quy đ ịnh tại khoản 1 Điều 138 và điểm a, khoản 1, Đ iều 140 Bộ luật hình sự như đề nghị truy tố của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hộ i và gây bất bình trong nhân dân nên cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định.
Bị cáo có nhân thân rất xấu: Ngày 17/12/2010, b ị đưa vào Trường giáo dưỡng 18 tháng về hành vi “Cướp giật tài sản; Trộm cắp tài sản ”. Bản án s 01/2016/HSST ngày 21/01/2016, Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Môi giới mại dâm”. Bị cáo ra trại ngày 24/01/2017. Bản án trên chưa được xóa án tích. Phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm”
Xét tính chất hành vi phạm tộ i, nhân thân b ị cáo , Hội đồng xét xử thấycần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly b ị cáo ra khỏ i xã hộ i một thời gian đủ điều kiện cải tạo giáo dục, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình Hộ i đồng xét xử có xem xét bị cáo khai báo thành khẩn để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Đ iều 138 và Đ iều 140 Bộ luật hình sự.
Dân sự : Ngày 24/3/2017, Cơ quan điều tra đã trao trả anh Bùi Văn H 01 điện thoại Iphone 5S kèm sim, 01 đ iện thoại Nokia 6700 C1kèm s im, 01 đ iện thoại Nokia 101kèm S im và 22.600.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản anh H yêu cầu T bồi thường 33.320.000 đồng.Ngày 13/7/2017, anh H có đơn xin xét xử vắng mặt và anh có nêu trong đơn về phần bồi thường dân sự anh không yêu cầu nữa vì bị cáo không có khả năng. Xét đề nghị của anh H về việc không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nữa là tự nguyện, không trái quy đ ịnh của pháp luật nên cần được chấp nhận.
Số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt của anh H trong con lợn bằng đất nung, trên bàn thờ thần tài là 14.650.000 đồng và 10.920.000đ tiền vé máy bay, anh H đã nhận lại 22.600.000 đồng. Số tiền còn lại 2.950.000đ anh H không có yêu cầu nên buộc bị cáo phải truy nộp để sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 đ iện thoại d i động Nokia 106 C1 thu giữ của b ị cáo cần tịch thu sung quỹ nhà nước; 01 thẻ s im cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản’’.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm a, khoản 1 Điều 140, điểm p, khoản 1 Điều 46; điểm g, khoản 1 Điều 48; Đ iều 50 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn T 18 (mƣời tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 18 (mƣời tám) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 36 (ba mƣơi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/3/2017.
2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76, Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí Tòa án của Quốc hội 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Buộc bị cáo T phải truy nộp 2.950.000đ để sung quỹ Nhà nước .
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 106 C1; tịch thu tiêu hủy 01 thẻ s im (Số vật chứngnêu trên hiện lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo biên bản giao, nhận vật chứng số135 ngày 24/5/2017).
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Nơi nhận: Bị cáo;Người bị hại; VKSND quận Nam Từ Liêm;- VKSND thành phố Hà Nội;- TAND thành phố Hà Nội;
Bản án 136/2017/HSST ngày 17/07/2017 về tội trộm cắp tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 136/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về