TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 135/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2021/TLHS-ST ngày 07/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2021/QĐXXST-HS ngày 11/5/2021 đối với bị cáo:
Tạ Thanh S- sinh ngày 27/12/1997; ĐKHKTT và nơi ở: Thôn V, xã L, huyện Kinh Môn, Hải Dương; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Văn Luận và bà Hoàng Thị Luyến; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ 2; Có vợ là Lê Thị Hằng và 01 con sinh năm 2019;
Tiền án, tiền sự: 01 tiền sự (đã xóa): Ngay 16/03/2015, Công an huyên Kinh Môn, Hai Dương xử phat hành chính về hành vi Cố ý gây thương tich.
Bắt tam giam ngày 15/12/2020. Hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an TP Hà Nội. ( Bị cáo có mặt tại phiên tòa);
Người bị hại:
-Anh Bùi Công T, sinh năm 1986. (Vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú : Phòng XX nhà G, khu 7,2Ha, phường V, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
-Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1990. (Vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú: Số 20/57 Thiên Đức, thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
-Anh Lê Trọng D, sinh năm 1986. (Vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú: Xóm 3, xã L, huyện Thường Tín, Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Phúc P, sinh năm 1991. (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Q, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Anh Ngô Doãn M, sinh năm 1985. (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Xã L, thị xã K, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 00h35’ ngày 30/05/2020, Tạ Thanh S đi bộ đến khu vực trước cửa nhà số 12 ngõ 376 đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, Hà Nội thì nhìn thấy anh Bui Công Trương (sinh năm 1986, địa chỉ: P506 nhà G3 khu 7,2Ha, Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội) đang nằm ngủ trên vỉa hè nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của anh Trương. Sau khi quan sát xung quanh không có người, S tiến lại gần người anh T lục soát trong túi quần, túi áo và trên người anh T rồi trộm cắp 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh, 01 vòng đeo tay màu đen, 01 nhẫn vàng và 01 chiếc ví da màu xanh bên trong có số tiền 500.000 đồng và 01 CMND.
Sau khi trộm cắp, S đi về nhà mở ứng dụng Zalo của anh T trong chiếc điện thoại Samsung (do máy không khoá) rồi nhắn tin cho bạn bè trong danh bạ để hỏi vay tiền. Do tin tương anh Trương la ngươi nhắn tin vay tiền nên anh Nguyễn Manh Cương đa chuyên số tiền 03 triêu đồng va anh Lê Trọng Dung đa chuyên số tiền 05 triêu đồng qua Internetbanking đến tai khoan số 035100100322 ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản là Lê Thị Hằng (vợ S).
Tiếp đến, S truy cập vào tài khoản ngân hàng Vietcombank của anh T trong điện thoại Samsung (do mật khẩu lưu trong máy) rồi chuyển số tiền 19,5 triệu đồng đến tài khoản số 1440205511294 Ngân hàng Agribank, chủ tài khoản là Tạ Duy Thanh để trả nợ và chuyển số tiền 80 triệu đồng đến tài khoản của 01 đối tượng làm đại lý game (sử dụng số điện thoại 0972.477.777) để mua tiền ảo trong game. Đến trưa cung ngay, do S chơi game thắng nên đổi ý không mua tiền ảo nữa, vì vậy S đã liên lạc với đối tượng làm đại lý game và đề nghị chuyển lại số tiền 81,62 triệu đồng cho S (80 triệu đồng là số tiền S đã chuyển khoản trước đó, còn 1,62 triệu đồng là số tiền S chơi game thắng). Đối tượng đại lý game nhất trí và đã sử dụng tài khoản số 0031000402408 ngân hang Vietcombank, tên chủ tài khoản là “Tran Van Dai” chuyển số tiền 76,5 triệu đồng về tai khoan Vietcombank cua anh Trương; sử dụng tài khoản số 19035432659010 ngân hàng Vietcombank, tên chủ tài khoản “Nguyen Quang Tuan” chuyển số tiền 5.120.000 đồng về tài khoản ngân hàng Vietcombank cua Lê Thi ̣Hằng theo yêu cầu của S.
Đối với chiếc điện thoại di động Samsung, S đi về Hải Dương ban cho anh Nguyễn Phuc P với giá 06 triệu đồng (sau đo anh P ban lai chiếc điên thoai này cho anh Ngô Doan Mai). Còn chiếc điện thoại di động Iphone X va 01 nhẫn vang thì S bán cho người không quen biết giá 2.600.000 đồng tại xã Phúc Thành, huyện Kim Thành, Hải Dương. Số tài sản còn lại thì S mang về nhà cất. Toàn bộ số tiền có từ việc phạm tội S đã tiêu xài hết. Đến ngày 15/12/2020, S bị bắt tạm giam.
Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ của Ta Thanh S:
01 chiếc vi da nam mau xanh, dạng ví ngang nhãn hiệu Lacoste;
01 vòng deo tay Garmin Foreniner 245 Music màu đen;
01 CMND mang tên Bui Công Trương;
- Thu giữ của anh Ngô Doan M:
01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh.
- Qua rà soát, thu giữ 01 đĩa DVD ghi lại hình ảnh vụ trộm cắp tài sản .
Hiện chưa thu hồi được 01 chiếc điện thoại Iphone X, 01 nhẫn vang va số tiền 23.500.000 đồng của anh Bui Công Trương.
Theo Kết luận định giá số 99/KLĐG-HĐĐGTS ngày 04/8/2020 và số 145/KLĐG-HĐĐGTS ngày 23/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS - UBND quận Ba Đình:
“- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh 128G, trị giá 8.000.000 đồng;
- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone X màu đen xám 64G, trị giá 15.000.000 đồng;
- 01 vòng deo tay Garmin Foreniner 245 Music màu đen, trị giá: 5.000.000 đồng.
- 01 chiếc nhẫn cưới bằng kim loại màu vàng hiệu SJC có trọng lượng 01 chỉ, trị giá 3.000.000 đồng;
- 01 chiếc ví da nam màu xanh Navy, dạng ví ngang nhãn hiệu Lacoste, trị giá 1.000.000 đồng.” Tổng trị giá tài sản là 32 triệu đồng” Tại Cơ quan điều tra, bị can Ta Thanh S đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Lời khai nhận của bị can phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đối với các anh Nguyễn Phúc P va Ngô Doan M là người mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh, khi mua các anh P va M không biết chiếc điện thoại trên là do S phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý. Anh M không có đề nghị gì khác về phần dân sự.
Đối với Lê Thi ̣ Hằng (vợ của S), do Hằng đưa số tài khoản và thẻ ATM của Hằng cho S dùng nên không biết viêc S chuyển tiền vào tài khoản, do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ để xư ly.
Đối với Tạ Duy T (anh trai của S) khi nhận được số tiền 19,5 triệu đồng S chuyển vào tài khoản của Thanh thì nghĩ đó là tiền S trả nợ nên đã tiêu hết. Anh T không biết đó là số tiền do S phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.
Đối với đối tượng làm đại lý game, chủ tài khoản mang tên “Tran Van Dai” và “Nguyen Quang Tuan”, chủ thuê bao điện thoại số 0972.477.777, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được đối tượng cụ thể. Xét các đối tượng này không liên quan đến hành vi phạm tội của S nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Tại Cơ quan điều tra, các anh Lê Trọng D va Nguyễn Mạnh C khai nội dung sự việc bị lừa đảo và yêu cầu S bồi thương số tiền đa bi chiếm đoạt.
Về vật chứng thu giữ: Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Bui Công Trương 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh, 01 vong đeo tay mau đen, 01 vi da nam mau xanh và 01 CMND mang tên Bui Công Trương. Số tài sản chưa thu hồi được của anh T có tổng trị giá 41,5 triệu đồng tuy nhiên anh Trương chỉ yêu cầu bồi thường số tiền 35 triệu đồng.
Tại cơ quan điều tra, Tạ Thanh S khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của S phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng sơ đồ hiện T và các tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra.
Tại bản cáo trạng số 90/CT-VKS ngày 05/05/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, bị cáo Tạ Thanh S bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ” theo khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 174; điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa :
Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.
Người bị hại là anh T, anh D, anh C có đơn xin xét xử vắng mặt và gửi đơn trình bày gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường toàn bộ thiệt hại số tiền 41.500.000 đồng cho anh T, 3000.000 đồng cho anh C và 5000.000 đồng cho anh D nên người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh P và anh M xin xét xử vắng mặt. Anh M không yêu cầu bồi thường về dân sự.
Anh P không yêu cầu bị cáo trả lại 6.000.000 đồng là tiền anh P mua chiếc điện thoại của bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử : áp dụng khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 174; điểm đ khoản 2 Điều 290, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 38 ; Điều 47; Điều 55 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Tạ Thanh S 18 đến 20 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. 08 đến 10 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 36 đến 42 tháng tù về tội sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Tổng hợp hình phạt cho cả ba tội từ 62 đến 72 tháng tù.
Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về trách nhiệm dân sự : Bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Truy thu số tiền hưởng lợi bất chính 6000.000 đồng của bị cáo do bán chiếc điện thoại di động nhan hiêu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo bày tỏ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người bị hại là anh Bùi Công T, anh Nguyễn Mạnh C, anh Lê Trọng D có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 00h35’ ngày 30/05/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 12 ngõ 376 đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, Hà Nội, Ta Thanh S co hành vi lén lút trộm cắp tài sản cua anh Bui Công Trương, gồm: 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh, 01 vòng đeo tay màu đen, 01 nhẫn vàng và 01 chiếc ví da màu xanh bên trong có số tiền 500.000 đồng và 01 CMND. Tông gia tri ̣ tai san bị chiếm đoạt là 32.500.000 đồng. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Sau đó, Ta Thanh S đã sử dụng chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy S10 của anh Bui Công Trương mạo danh là anh T đê nhắn tin lừa đảo chiếm đoat cua anh Nguyễn Manh Cương 3000.000 đồng va anh Lê Trong Dung 5000.000 đồng. Hành vi gian dối này của bị cáo cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tiếp đến, Ta Thanh S mở chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy S10 và truy câp bất hơp phap vào tài khoản tại Ngân hàng Vietcombank của anh Bùi Công T để chiếm đoat số tiền 99.500.000 đồng của anh T. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo cấu thành tội sử dụng phương tiện điện tử theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Hành vi của bị cáo là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bản thân bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại thời điểm phạm tội, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ” theo khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 174; điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự .
Bản cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Tinh chất mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Tòa án xét xử nghiêm minh vụ án nhằm giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền sự năm 2015, bị Công an huyên Kinh Môn, Hai Dương xử phat hành chính về hành vi Cố y gây thương tich nhưng đã được xóa.
[6]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Khi quyết định hình phạt , Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tài sản đã được thu hồi một phần và trả lại cho người bị hại Bùi Công T,. Gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại. Các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[8] Về hình phạt bổ sung: Tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
[9] Về trách nhiệm dân sự:
Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Trương: 01 chiếc điện thoại di động nhan hiêu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh, 01 vong đeo tay mau đen, 01 vi da nam mau xanh và 01 CMND mang tên Bui Công Trương và bị cáo đã tự nguyện khắc phục số tiền 76.500.000 đồng trong số tiền 99.500.000 đồng chiếm đoạt được trong tài khoản.
Số tài sản của anh T chưa thu hồi được gồm: 23.000.000 đồng trong tài khoản;
01 điện thoại di động Iphone X màu đen trị giá 15.000.000 đồng; 01 nhẫn vàng nhãn hiệu SJC trọng lượng 01 chỉ trị giá 3000.000 đồng và 500.000 đồng trong ví da. Tổng cộng giá trị tài sản chưa thu hồi được là 41.500.000 đồng. Gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ giá trị tài sản là 41.500.000 đồng cho anh T. Anh T đã nhận được toàn bộ giá trị tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường.
Đối với số tiền 3000.000 đồng S lừa đảo chiếm đoạt của anh C và số tiền 5000.000 đồng S lừa đảo chiếm đoạt của anh D không thu hồi được. Nay gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường trả cho anh D và anh C số tiền bị chiếm đoạt, anh C và anh D không yêu cầu bị cáo bồi thường nữa.
Các bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu về dân sự nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Đối với anh P va anh Mai là người mua chiếc điện thoại di động nhan hiêu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh 6000.000 đồng. Anh P mua của bị cáo và bán lại cho anh M 6000.000 đồng. Anh M đã giao nộp chiếc điện thoại cho cơ quan điều tra, anh P đã trả lại cho anh M 6000.000 đồng, nay anh P không có yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 6000.000 đồng. Xét đây là số tiền do phạm tội mà có nên buộc bị cáo nộp ngân sách nhà nước.
Khi mua anh P va anh M không biết chiếc điện thoại trên là do S phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với Lê Thi ̣ Hằng (vợ của S), do Hằng đưa số tài khoản và thẻ ATM của Hằng cho S dùng nên không biết viêc S chuyển tiền vào tài khoản, do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ để xư ly.
Đối với Tạ Duy Thanh (anh trai của S) khi nhận được số tiền 19,5 triệu đồng S chuyển vào tài khoản của Thanh thì nghĩ đó là tiền S trả nợ nên đã tiêu hết. Anh Thanh không biết đó là số tiền do S phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.
Đối với đối tượng làm đại lý game, chủ tài khoản mang tên “Tran Van Dai” và “Nguyen Quang Tuan”, chủ thuê bao điện thoại số 0972.477.777, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được đối tượng cụ thể. Xét các đối tượng này không liên quan đến hành vi phạm tội của S nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo và người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên ;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Tạ Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản” , tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ”.
Căn cứ khoản 1, Điều 173; khoản 1 Điều 174; điểm đ khoản 2 Điều 290; Điều 55 ; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Điểm b khoản 2 Điều 106; Điều 136, khoản 1 Điều 292; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Xử phạt:
Bị cáo Tạ Thanh S 18 (mười tám ) tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
08 (tám) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 tội là 62 ( sáu mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng : Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất chính 6000.000 đồng của bị cáo do bán chiếc điện thoại di động nhan hiêu Samsung Galaxy S10 Plus màu xanh.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án
Bản án 135/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 135/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về