Bản án 135/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 135/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 26 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 713/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXX-ST ngày 18 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Võ Thị Kim Q, sinh năm: 1986 (có mặt) Địa chỉ: tổ 15 ấp TTA, xã BĐ, huyện CT, Tiền Giang Chỗ ở: ấp PT, xã PP, huyện CT, Tiền Giang

2/ Bị đơn: Trương Minh Q1, sinh năm: 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 15 ấp TTA, xã BĐ, huyện CT, Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07/9/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Võ Thị Kim Q trình bày:

Chị và anh Trương Minh Q1 cưới nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại UBND xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Sau cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không thể hòa hợp, đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả và đã sống ly thân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị khởi kiện như sau:

-Về quan hệ hôn nhân: cho chị được ly hôn với anh Trương Minh Q1.

-Về con chung: có 01 con chung tên Trương Võ Hoàng L, sinh ngày 16/7/2012. Chị Q yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh Q1 cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

-Về nợ chung: Không có Anh Trương Minh Q1 đã được tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như các văn bản tố tụng khác nhưng không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Chị Q.

Tại phiên tòa, Chị Q vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn, nuôi con như đã trình bày. Anh Q1 vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đối với đương sự: nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn thực hiện chưa đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho Chị Q được ly hôn với anh Q1. Về con chung, giao cho Chị Q được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh Q1 không phải cấp dưỡng nuôi con do Chị Q không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trương Minh Q1 được triệu tập dự phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Q1.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Kim Q và anh Trương Minh Q1 cưới nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn vào ngày 23/6/2010 tại UBND xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 30 quyển số 01/2010, như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo Chị Q trình bày tại phiên tòa thì vợ chồng sống tương đối hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì có mâu thuẫn do tính tình và quan điểm sống không phù hợp, anh Q1 không quan tâm chăm sóc vợ con, đi làm không về nhà đã hơn một năm, chỉ thỉnh thoảng điện thoại cho cha mẹ chứ không có nói gì với mẹ con chị. Vợ chồng mà không quan tâm chăm sóc nhau, không còn tình cảm với nhau nên chị quyết định ly hôn.

Xét thấy, chị Quyên xin ly hôn nhưng anh Q1 không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của Chị Q dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Tại phiên tòa hôm nay Chị Q vẫn cương quyết xin được ly hôn, anh Q1 không đến Tòa án và vắng mặt không lý do điều này thể hiện anh Q1 không có ý chí mong muốn tình cảm vợ chồng hàn gắn mà để mặc cho Chị Q quyết định.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau nhưng hiện giữa Chị Q và anh Q1 không còn tình nghĩa vợ chồng, hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó nay Chị Q xin ly hôn với anh Q1 là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Q và anh Q1 có 01 con chung tên Trương Võ Hoàng L, sinh ngày 16/7/2012. Chị Q yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh Q1 cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu được nuôi con của Chị Q thấy rằng cháu Long đã trên 7 tuổi, các cháu đã sinh sống ổn định với Chị Q kể từ ngày anh chị mâu thuẫn và sống ly thân nhau, cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ. Để ổn định tâm sinh lý cũng như nơi sinh sống, nguyện vọng của con, xét yêu cầu tiếp tục nuôi con của Chị Q là phù hợp với quy định pháp luật và nguyện vọng của con nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Q không yêu cầu anh Q1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản: Chị Q trình bày để tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị Q trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Võ Thị Kim Q được ly hôn với anh Trương Minh Q1.

2. Về con chung: giao chị Võ Thị Kim Q tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Trương Võ Hoàng L, sinh ngày 16/7/2012. Anh Trương Minh Q1 có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: anh Trương Minh Q1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Võ Thị Kim Q không yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Võ Thị Kim Q chịu là 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng tại biên lai số 0003438 ngày 26/10/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xem như đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: chị Võ Thị Kim Q có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trương Minh Q1 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 135/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:135/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;