TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 135/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện LT, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 141/2019/HSST ngày 14 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Trần Thanh D, sinh năm 1992 tại Cà Mau; Nơi đăng ký thường trú: ấp 3, xã T, thành phố C, tỉnh C; nơi cư trú: Ấp P, phường M, thị xã P, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh B và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 02/12/2014 bị Chủ tịch UBND xã T xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ, cất giấu trong người các loại dao, búa, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hằng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác”; nhân thân: Ngày 05/09/2011, bị TAND thành phố C xử phạt 3 năm tù về tội “ Cướp tài sản” theo bản án số 132/2011/HSST (được đặc xá ngày 30/08/2013), ngày 27/07/2016 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo bỏ trốn nên bị Cảnh sát điều tra Công an thành phố C truy nã theo quyết định số 24 ngày 05/09/2016; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/08/2019 và chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện LT. “Có mặt”
- Bị hại: Chị Trƣơng Thị Bích N, sinh năm: 1992, nơi cư trú: tổ 4, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hòa, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. “Có mặt”
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Trần Trung T, sinh năm 1970, nơi cư trú: ấp 3, xã Phước Bình, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. “Vắng mặt”
2. Công ty cổ phần gốm sứ T, địa chỉ: KCN Gò Dầu, xã PT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.
Đại diện theo pháp luật: ông Wu Ching Y, chức vụ: Tổng giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: bà Tsan A M, chức vụ: Tổng vụ. “Có mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Thanh D và Trương Thị Bích N có quan hệ tình cảm với nhau và đều làm công nhân tại Công ty cổ phần gốm sứ T thuộc khu công nghiệp Gò Dầu - Vedan thuộc xã PT, huyện LT. Lúc 23 giờ 35 phút ngày 02/08/2019, do nghi ngờ N quen với người khác nên D lấy 01 dao lam giấu trong người rồi điều khiển xe mô tô biển số 52Z-70xx đi từ phòng trọ ở phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến Công ty gốm sứ T tìm N nói chuyện, nếu N không nghe lời thì sẽ rạch mặt N. Khi đến nơi, D gọi N ra để nói chuyện thì hai bên xảy ra cự cãi. Bực tức, D lấy dao lam mang theo trong người để rạch mặt N thì bị N dùng tay giật, bẻ gãy dao lam (N đang mang bao tay vải). Lúc này, D tiếp tục chạy lại bình nước nóng lạnh cách đó khoảng 5m lấy 01 cái ly bằng sứ đập vỡ rồi cầm 01 mảnh sứ đã vỡ quay lại rạch một nhát vào cằm của chị N gây thương tích. Sau đó, lực lượng bảo vệ Công ty can ngăn nên D bỏ đi về còn chị N được đưa đi phòng khám để khâu vết thương. Sau khi về đến phòng trọ, do bực tức việc bảo vệ của Công ty trên đuổi ra nên D rủ T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) quay lại đánh trả thù, T1 rủ thêm 03 người thanh niên (không rõ nhân thân, lại lịch) rồi tất cả quay lại để tìm bảo vệ Công ty để đánh. Đến nơi, cả nhóm gặp anh Trần Trung T là bảo vệ Công ty, Tèo cầm tuýt sắt xông lại đánh vào người anh T thì anh T bỏ chạy nên tất cả bỏ về. Đến trưa ngày 04/08/2019, D gặp lại T1 thì được T1 kể lại vào tối ngày 03/08/2019, T1 và một số thanh niên (không rõ nhân thân, lại lịch) đến Công ty cổ phần gốm sứ T đập vỡ kính phòng bảo vệ của Công ty.
Ngày 03/08/2019, chị Trương Thị Bích N làm đơn tố cáo hành vi của D đến Đồn công an Khu công nghiệp Gò Dầu-Vedan.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0702/TCT/2019 ngày 09/8/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai kết luận thương tích của Trương Thị Bích N như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo cằm phải, kích thước 3,5cm x 0,2cm, sẹo xấu về thẩm mỹ (Áp dụng chương 9, điều IV, mục 1). Tỷ lệ: 11 %.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 11 %.
3. Kết luận khác: Vật gây thương tích: Vật sắc.
Về vật chứng, tài sản tạm giữ: 01 điện thoại hiệu Oppo, 01 xe mô tô biển số 52Z-7xxx. 01 dao lam bị gãy và 01 mảnh sứ đã vỡ do bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội, sau khi gây án, do bị cáo đã vứt hiện đã thất lạc nên không thu hồi được.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị hại không yêu cầu bồi thường.
Tại Cáo trạng số: 146/CT-VKSLT ngày 11 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện LT đã truy tố bị cáo Trần Thanh D về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LT giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng số: 146/CT-VKSLT ngày 11 tháng 10 năm 2019.
Sau khi phân tích và luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LT đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thanh D phạm tội “Cố ý gây thương tích”; áp dụng điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thanh D từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong cáo trạng, nội dung phân tích, luận tội của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa và không có ý kiến bào chữa gì thêm. Đồng thời, trong lời nói sau cùng cũng đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng và làm người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp là đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì về tính hợp pháp của các chứng cứ nên những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
Tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận vào 09 giờ 00 phút ngày 03/08/2019, bị cáo được Công an Đồn khu công nghiệp Gò Dầu-VeDan mời về làm việc về hành vi phạm tội do chị Trương Thị Bích N và Công ty T trình báo và sau đó, vụ việc được chuyển lên Công an huyện LT giải quyết nên việc lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú đề ngày 05/08/2019 của Công an huyện LT là không phù hợp với quy định pháp luật.
Đối với những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đều là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận: Lúc 23 giờ 35 phút ngày 02/08/2019, tại Công ty gốm sứ T thuộc Khu công nghiệp Gò Dầu- Vedan ở xã PT, huyện LT, do nghi ngờ ghen tuông nên Trần Thanh D có hành vi dùng mảnh sứ đã vỡ rạch vào vùng cằm của chị Trương Thị Bích N với tỷ lệ tổn thương cơ thể 11 %. Ngày 03/08/2019, chị N làm đơn tố cáo hành vi của D đến Đồn khu Công nghiệp Gò Dầu - Vedan.
Sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng cùng các chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đã có hành vi dùng vật sắc (miểng sành) là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho chị Trương Thị Bích N, đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ. Hậu quả làm chị Trương Thị Bích N bị thương tích với tỷ lệ 11% . Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện LT truy tố bị cáo Trần Thanh D về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 3 năm tù về tội “cướp tài sản” và đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C truy nã về hành vi “Trộm cắp tài sản” mà không biết ăn năn hối cải, bị cáo đã bất chấp sự trừng trị của pháp luật mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, hình phạt dành cho bị cáo phải thật nghiêm và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật và đủ để răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Vào lúc 12 giờ 45 phút ngày 05/08/2019, Công an huyện LT lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú đối với bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận bị cáo không đầu thú mà do bị cáo được Công an Đồn khu công nghiệp Gò Dầu-VeDan mời về làm việc về hành vi phạm tội do chị Trương Thị Bích N và Công ty T trình báo nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ là đầu thú theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành một người có ích cho xã hội.
[4] Xử lý vật chứng:
Về vật chứng, tài sản tạm giữ: 01 điện thoại hiệu Oppo do không liên quan đến vụ án Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LT trả lại cho bị can D. 01 dao lam bị gãy và 01 mảnh sứ đã vỡ do bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội sau khi gây án do bị cáo đã vứt hiện đã thất lạc nên không thu hồi được. Riêng đối với 01 xe mô tô biển số 52Z-7xxx hiện chưa xác minh rõ nguồn gốc chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LT tiếp tục tạm giữ để xác minh, làm rõ, xử lý sau.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị hại chị Trương Thị Bích N không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét. [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo luật định.
[7] Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện LT và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và truy tố, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Riêng việc lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú vào lúc 12 giờ 45 phút ngày 05/08/2019 đối với của Trần Thanh D của Công an huyện LT là không hợp pháp. Hành vi, quyết định khác của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
Đối với hành vi do Trần Thanh D và T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) cùng với 03 thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) gây thương tích cho anh Trần Trung T, do thương tích nhẹ, anh T không yêu cầu giám định và xử lý hình sự. Anh Trần Trung T cũng không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.
Đối với hành vi do T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) cùng với 03 thanh niên(không rõ nhân thân, lai lịch) đập phá của kính của Công ty cổ phần gốm sứ T, do giá trị tài sản thiệt hại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LT không khởi tố. Công ty cổ phần gốm sứ T cũng không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh D phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh D 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/08/2019.
Xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô biển số 52Z-7xxx hiện chưa xác minh rõ nguồn gốc chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LT tiếp tục tạm giữ để xác minh, làm rõ, xử lý sau.
Về trách nhiệm dân sự: chị Trương Thị Bích N không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.
Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan-Công ty cổ phần gốm sứ T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan-anh Trần Trung T đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án 135/2019/HS-ST về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 135/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về