Bản án 135/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 135/2019/HSST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 138/2019/HSST ngày 09 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Quàng Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1993 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản N L, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 10/12; đảng phái: Đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam (Đã đình chỉ sinh hoạt đảng vào ngày 15/7/2019 theo quyết định số 125-QĐ/UBKTHU ngày 15/7/2019 của Ủy ban kiểm tra huyện ủy Thuận Châu, tỉnh Sơn La); con ông: Quàng Văn X, sinh năm 1964 và bà Lường Thị Th, sinh năm: 1965; có vợ là Quàng Thị D, sinh năm 1995 và có 02 con, lớn nhất 5 tuổi, nhỏ nhất 3 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Văn B; tên gọi khác: Không; sinh năm 1992 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản M, xã B M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 8/12; con ông Lò Văn L, sinh năm 1963 và bà Quàng Thị Đ, sinh năm 1963; có vợ là Quàng Thị X, sinh năm 1994 và có 02 con, lớn nhất 6 tuổi, nhỏ nhất 3 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Lèo Thị Trang, sinh năm 2001; địa chỉ: bản N L, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 50 phút, ngày 25/6/2019 tổ công tác Công an xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại hang bản Thẳm – Tông Lạnh – Thuận Châu phát hiện, bắt quả tang 03 đối tượng đang có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác kiểm tra thì 01 nam thanh niên đã bỏ chạy thoát, đã khống chế được Quàng Văn T và Lò Văn B.

Tang vật thu giữ:

1. 01 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng hình trụ tròn và một ít chất bột cục màu trắng nghi là ma túy tổng hợp và heroine 2. 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có số IMEI 1: 355803093360681, IMEI 2: 355803098360686, đã qua sử dụng cũ.

3. 01 chiếc xe máy, bưởng máy bên trái có chữ DETECH TAIWAN, bưởng máy bên phải có chữ DETECH, không xác định được loại xe, màu sắc, không xác định được số khung, số máy, không có biển kiểm soát, xe không có yếm, gương, xe đã qua sử dụng cũ nát;

4. 01 mảnh giấy bạc đốt dở không rõ hình;

5. 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng;

Hi 19 giờ 00 phút, cùng ngày, tại Phòng PC 09 - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh số bột cục màu trắng và 01 viên nén màu hồng hình trụ tròn thu giữ của Quàng Văn T, Lò Văn B. Cân tịnh toàn bộ số bột cục màu trắng có khối lượng 0,12 gam ( Không phẩy mười hai gam), lấy toàn bộ 0,12 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1. Cân tiếp 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,09 gam ( Không phẩy không chín gam), lấy toàn bộ 0,09 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T2, còn lại 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 phong bì thư niêm phong, dán kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn T cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 25/6/2019”; Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu nhập kho vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số: 1180 ngày 27/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu các bị can đã khai nhận như sau: Khoảng 14 giờ, ngày 25/6/2019 Quàng Văn T đang ở nhà thì có Lường Văn Tâm, trú cùng bản và Lò Văn B đến chơi. Ngồi chơi được một lúc thì Tâm rủ Tuấn, Bước góp tiền đi mua ma túy về sử dụng, mọi người đồng ý. Tuấn góp 100.000 đồng ( Một trăm nghìn đồng), Bước góp 60.000 đồng ( Sáu mươi nghìn đồng) rồi đưa cho Tâm. Tâm dùng xe mô tô không biển kiểm sát của Tâm chở Tuấn, Bước đi lên bản Thôm, xã Thôm Mòn để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản Thôm – Thôm Mòn thì Tâm bảo Tuấn, Bước xuống xe đứng đợi, còn Tâm một mình điều khiển xe vào trong bản Thôm để tìm mua ma túy. Khoảng 30 phút sau, Tâm quay lại và nói với Tuấn, Bước là Tâm đã mua được ma túy và chở Tuấn, Bước đi vào hang bản Thẳm – Tông Lạnh để sử dụng ma túy. Khi đến hang bản Thẳm, Tuấn dùng điện thoại của Tuấn bật đèn pin soi cho Tâm mở gói ma túy vừa mua được gói bằng mảnh nilon màu hồng, rồi san ra một ít heroine và 01 viên hồng phiến nghiền trộn lẫn vào nhau rồi đốt lên sử dụng. Số heroine còn lại và 01 viên hồng phiến Tâm gói lại bằng mảnh nilon hồng để trước mặt mọi người đang ngồi. Khi mọi người vừa sử dụng ma túy xong thì bị tổ công tác Công an xã Tông Lạnh đang làm nhiệm vụ phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật trên, lợi dụng sơ hở tổ công tác Lường Văn Tâm đã bỏ chạy thoát, còn Tuấn, Bước bị tổ công tác khống chế được.

Tại bản cáo trạng số: 138/CT-VKS ngày 09-10-2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu truy tố các bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: tuý.

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn T từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 25-6-2019 ( là ngày bắt giữ bị cáo ).

- Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn B từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 25-6-2019 ( là ngày bắt giữ bị cáo ). Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy bạc đốt dở không rõ hình; 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các vật chứng trên được cho vào cùng 01 phong bì thư niêm phong, dán kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn T cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 25/6/2019”; Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu;

- Trả cho chị Lèo Thị Trang: 01 chiếc xe máy, bưởng máy bên trái có chữ DETECH TAIWAN, bưởng máy bên phải có chữ DETECH, không xác định được loại xe, màu sắc, không xác định được số khung, số máy, không có biển kiểm soát, xe không có yếm, không có gương, xe đã qua sử dụng cũ nát;

- Trả cho Quàng Văn T 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có số IMEI 1: 355803093360681, IMEI 2: 355803098360686, đã qua sử dụng cũ;

Bị cáo Quàng Văn T phải chịu án phí hính sự sơ thẩm theo quy định; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn B Lời nói sau cùng của các bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và xin miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [2] Về nội dung: Vào hồi 15 giờ 10 phút ngày 25-6-2019, tại hang bản Thẳm, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu các bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B đã có hành vi cất giữ trái phép 0,21 gam ma túy, trong đó 0,12 gam heroine và 0,09 gam methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị tổ công tác công an xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại phiên tòa các bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với:

Lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang vào ngày 25-6-2019, bản kết luận giám định số 1180 ngày 27/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái 0,21 gam ma túy, trong đó 0,12 gam heroine và 0,09 gam methamphetamine) trong người với mục đích để sử dụng của các bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét vị trí vai trò đồng phạm thấy: Quàng Văn Tâm là người khởi xướng, rủ Quàng Văn T, Lò Văn B đi mua ma túy; bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B là người bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực nên các bị cáo có vai trò ngang nhau.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của các bị cáo thuôc trương hơp nghiêm trong , đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm đối với các bị cáo.

Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Xét nhân thân các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo tàng trữ lượng ma túy không lớn, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 BLHS 2015

[7] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản thu nhập nên không có khả năng nộp phạt do đó Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Về vật chứng:

Đi với 01 mảnh giấy bạc đốt dở không rõ hình; 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, là công cụ phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội và hết giá trị sử dụng cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 chiếc xe máy, bưởng máy bên trái có chữ DETECH TAIWAN, bưởng máy bên phải có chữ DETECH, không xác định được loại xe, màu sắc, không xác định được số khung, số máy, không có biển kiểm soát, xe không có yếm, không có gương, xe đã qua sử dụng cũ nát thuộc sở hữu hợp pháp của chị Lèo Thị Trang. Chị Trang không biết việc Tâm, Tuấn, Bước sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho chị Trang Đối với 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có số IMEI 1: 355803093360681, IMEI 2: 355803098360686, đã qua sử dụng cũ không liên quan đến vụ án cần áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS trả cho Quàng Văn T [11] Về nguồn gốc ma túy, các bị cáo khai không biết người bán ma túy là ai, Lường Văn Tâm trực tiếp đi mua nhưng hiện nay Tâm đang bỏ trốn khỏi địa phương nên không có căn cứ để điều tra, xác minh mở rộng điều tra vụ án, cần chấp nhận Đối với Lường Văn Tâm, sinh năm: 1995, trú tại: bản Nà Luông – CP – Thuận Châu là đồng phạm với Quàng Văn T, Lò Văn B với vai trò là người khởi xướng và cùng thực hành tội phạm nhưng khi bị phát hiện, bị can đã bỏ trốn. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã xác minh nhiều lần nhưng bị can không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết bị can đi đâu và làm gì, nên ngày 16/9/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã ra lệnh truy nã số: 3768 đối với Lường Văn Tâm và tách vụ án thành một vụ án khác là có căn cứ, cần chấp nhận.

[12] Về án phí:

Bị cáo Quàng Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14;

Bị cáo Lò Văn B thuộc hộ cận nghèo nên được miễn tiền án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T, Lò Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 25-6-2019 ( là ngày bắt giữ bị cáo ).

- Xử phạt bị cáo Lò Văn B 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 25-6-2019 (là ngày bắt giữ bị cáo).

Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS cho các bị cáo.

2, Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy bạc đốt dở không rõ hình; 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 phong bì thư niêm phong, dán kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn T cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 25/6/2019”; Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu;

- Trả chị Lèo Thị Trang: 01 chiếc xe máy, bưởng máy bên trái có chữ DETECH TAIWAN, bưởng máy bên phải có chữ DETECH, không xác định được loại xe, màu sắc, không xác định được số khung, số máy, không có biển kiểm soát, xe không có yếm, không có gương, xe đã qua sử dụng cũ nát;

- Trả cho Quàng Văn T 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có số IMEI 1: 355803093360681, IMEI 2: 355803098360686, đã qua sử dụng cũ;

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Quàng Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn B

4. Quyền kháng cáo Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 135/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;