TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 135/2019/HS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 131/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn S, sinh năm 1975; nơi cư trú: thôn V, xã M, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V (đã chết) và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1944; vợ: Nguyễn Thị Ng; con: có ba con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 08/02/2010 Chủ tịch UBDN huyện B, tỉnh Hà Nam ra Quyết định về việc đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời gian 24 tháng. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/8/2019 cho đến nay. Có mặt.
Người làm chứng: Anh Bùi Xuân L, sinh năm 1984. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 05/8/2019 Nguyễn Văn S đang ở nhà của mình thì có người bạn nghiện tên T đến rủ đi sử dụng ma túy, S đồng ý. T điều khiển xe máy chở S đến thành phố Phủ Lý để mua ma túy. Khi đi đến đường 21A, thuộc xóm 3, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, T bảo S xuống xe đứng đợi, T điều khiển xe đi một lúc quay lại đưa cho S 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và điều khiển xe đi mua xi lanh. Trong khi S đang đứng đợi T thì bị lực lượng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Nam thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra S tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong gói giấy bạc có chứa chất bột màu trắng dạng cục, S khai đó là ma túy cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa Nguyễn Văn S cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S, 01 ví giả da màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung.
Thực hiện lệnh khám xét nơi ở đồ vật của bị cáo tại thôn V, xã M, huyện B, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ, tài liệu đồ vật gì.
Tại bản kết luận giám định số 150/PC09-MT ngày 08/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,148g, loại heroine”.
- Bản cáo trạng số 134/CT-VKSPL ngày 23/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là Bộ luật Hình sự).
- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù và hướng xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật. Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố, không tranh luận và không có lời tự bào chữa chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt là đúng pháp luật.
[3] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai thành khẩn nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, diễn biến vụ án, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 7 giờ 30 ngày 05/8/2019 tại đường 21A, thuộc khu vực xóm 3, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn S đang cất giữ trái phép 0,148gam ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, năm 2010 đã bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời gian 24 tháng.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có gia đình vợ con ổn định nhưng với lối sống buông thả không làm chủ bản thân đã sử dụng ma túy và bị đi chữa bệnh bắt buộc nhưng không cự tuyệt với ma túy mà tiếp tục phạm tội phải nghe sự phán quyết của Tòa án. Vì vậy cần phải ra một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện để giáo dục, răn đe và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung.
Hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.
[6] Về các tình tiết khác của vụ án: nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, bị cáo khai người đàn ông tên T đi mua và đưa cho bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã áp dụng các biện pháp điều tra, xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người tên T nên không có căn cứ xem xét trong vụ án.
[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:
- Toàn bộ số heroine cùng bao gói hoàn trả sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S, 01 ví giả da màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự;
- Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S 27 (hai mươi bảy). tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/8/2019.
2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong mặt trước ghi mẫu vật hoàn trả QT01 số 150/PC09-MT và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Trả lại bị cáo Nguyễn Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu vàng, số IMI11: 355079085097330, số IMEI2: 3550080085097338; 01 ví giả da màu đen đã cũ và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S.
Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày 24/9/2019.
3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp 200.000đ.
Án xử công khai sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 135/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 135/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về