Bản án 134/2018/HNGĐ-ST ngày 19/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 134/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 189/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2018 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3486/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị M, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn PH, xã CT, huyện AL, thành phố Hải Phòng;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá Đ, sinh năm 1977; nơi cư trú: SYH Nhật Bản;

Các đương sự đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Lê Thị M trình bày: Chị và anh Nguyễn Bá Đ xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Sở Hành chính thành phố Yoshikawa – tỉnh Saitama, Nhật Bản ngày 16/01/2014, có ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn tại Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản ngày 21/9/2018. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp được với nhau. Chị trở về Việt Nam sinh sống, còn anh Đ ở Nhật Bản, vợ chồng sống ly thân và chỉ liên lạc với nhau quan điện thoại. Mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày lạnh nhạt. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạtđược, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Bá Đ càng sớm càng tốt để chị nhanh chóng ổn định cuộc  sống.

Về con chung, tài sản chung: Chị và anh Đ không có con chung, tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Lê Thị M đề nghị không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Trong đơn xin ly hôn và đơn đề nghị của bị đơn gửi về Tòa án (đã được chứng thực lãnh sự), anh Nguyễn Bá Đ trình bày: Anh thống nhất với chị Lê Thị M về quá trình kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng. Xác định vợ chồng không còn tình cảm, không có khả năng đoàn tụ, anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh và chị M ly hôn với nhau. Về con chung, tài sản chung: Anh Đ xác nhận vợ chồng không có con chung, tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh Đ đang ở nước ngoài nên anh đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, chị Lê Thị M và anh Nguyễn Bá Đ vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại đơn xin xét xử vắng mặt của chị M thể hiện: Giữ nguyên quan điểm đã trình bày như trong đơn khởi kiện và bản tự khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của đương sự tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về việc ly hôn. Anh Nguyễn Bá Đ ở nước ngoài, không có nơi cư trú, làm việc ở Việt Nam, chị M hiện đang cư trú tại thành phố Hải Phòng. Mặt khác, anh Đ và chị M đều có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết việc ly hôn. Căn cứ vào khoản 1 Điều

28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 40; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc hòa giải vụ án và sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn anh Nguyễn Bá Đ đang cư trú tại Nhật Bản, anh Đ và chị M đều đề nghị không tiến hành hòa giải. Do vậy, căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Nguyễn Bá Đ và chị Lê Thị M đều vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị M và anh Nguyễn Bá Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn với nhau tại Sở Hành chính thành phố Yoshikawa – tỉnh Saitama, Nhật Bản ngày 16/01/2014, có ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn tại Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản ngày 21/9/2018, theo quy định tại Điều 8; Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng hạnh phúc được khoảng hai năm thì mâu thuẫn phát sinh vì tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng với nhau trong quan điểm sống. Chính sự xa cách về địa lý, anh Đ cư trú ở bên Nhật Bản còn chị M cư trú ở Việt Nam nên tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách. Mặt khác, vợ chồng đã ly thân trong thời gian dài, không quan tâm đến nhau. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và anh Đ đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 châp nhân đê nghi ly hôn của chị M.

[4] Về con chung và tài sản chung: Chị Lê Thị M và anh Nguyễn Bá Đ đều xác nhận không có con chung, không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị M là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị M và anh Nguyễn Bá Đ được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 40; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị M được ly hôn anh Nguyễn Bá Đ.

2. Về con chung và tài sản chung: Chị Lê Thị M và anh Nguyễn Bá Đ không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi dân sư sơ thâm đa nôp la 300.000đ (ba trăm nghin đông ) theo Biên lai sô 0010884 ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Lê Thị M đa nôp đu án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

+ Anh Nguyễn Bá Đ (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

+ Chị Lê Thị M (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
  • Tên bản án:
    Bản án 134/2018/HNGĐ-ST ngày 19/11/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    134/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    19/11/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 134/2018/HNGĐ-ST ngày 19/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:134/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;