Bản án 133/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 133/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh ĐắkLắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2021/HSST ngày 02/4/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2021/QĐXXST-HS ngày 13/4/2021, đối với các bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn N; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày:

16/8/1989; Tại: Phú Yên;

Nơi cư trú: Thôn B, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp:

Không; Trình độ học vấn: 12/12;

Con ông: Lê Văn T, sinh năm: 1963; Con bà: Lê Thị V, sinh năm: 1970, Bị cáo có vợ là: Trương Thị Tố U, sinh năm: 1993, cùng trú tại: Thôn B, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.

Tiền án: Không; tiền sự: 01.

Tiền sự: Ngày 21/01/2020, bị Công an xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc;

Ngày 11/10/2020, có hành vi Đánh bạc. Ngày 12/01/2021, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. ( Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Trần Đăng H, sinh năm: 1992; địa chỉ: Thôn 19, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk ( Vắng mặt).

2/ Anh Lê Thái S, sinh năm: 1974; địa chỉ: Tổ liên gia 10, Tổ dân phố 6, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ( Vắng mặt).

3/ Anh Lê Viết D, sinh năm: 1992; địa chỉ: Khối 15, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ( Vắng mặt).

4/ Anh Đoàn Văn L, sinh năm: 1978; địa chỉ: Khu phố 4, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên ( Vắng mặt).

5/ Anh Trần Văn T, sinh năm: 1995; địa chỉ: Thôn lô 13, xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

6/ Anh Hoàng Nguyễn Cao Ng, sinh năm: 1999; địa chỉ: Thôn 11, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn N là đối tượng có tiền sự về hành vi Đánh bạc (Công an xã Hòa X, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào 21/01/2020). Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 10/11/2020, sau khi chạy xe chở xi măng đến bãi xe công ty bê tông Long Phát thuộc Khu công nghiệp H, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì N vào phòng tập thể nhân viên của công ty để nghỉ ngơi. Tại đây, N thấy Đoàn Văn L, sinh năm: 1978, trú tại: Khu phố 4, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; Lê Viết D, sinh năm: 1992, trú tại: TDP15, phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Trần Văn T, sinh năm: 1995, trú tại: Thôn 13, xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Trần Đăng H, sinh năm: 1992, trú tại: Thôn 19, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk và Lê Thái Sĩ, sinh năm: 1974, trú tại: TDP6, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và 01 nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đang tham gia đánh bạc dưới hình thức Cào Liêng thắng thua bằng tiền nên N cùng vào tham gia đánh bạc. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, có thêm Hoàng Nguyễn Cao Ng, sinh năm: 1999, trú tại: Thôn 11, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông đến và cùng tham gia đánh bạc, sau đó nam thanh niên đi về trước.

Hình thức, cách thức đánh bạc và thắng thua như sau:

Người chơi sử dụng 01 bộ bài Tây (Tú Lơ Khơ) 52 quân bài, đặc điểm mỗi quân bài gồm số, kí hiệu và chất. Số và các kí hiệu quân bài được quy ước từ nhỏ đến lớn lần lượt từ 2 đến 10, J (gọi là Bồi), Q (gọi là Đầm), K (gọi là Già), A (gọi là Xì). Các quân bài 10, J, Q, K được tính 0 điểm, quân A được tính 01 điểm. Các quân bài từ số 2 đến số 9 được tính điểm tương đương với số ký hiệu hiển thị trên quân bài. Bài được phân định thắng thua từ lớn đến nhỏ lần lượt là Ba Cào (Xám), Liêng, Ba Tiên, điểm từ 9 đến 0. Xám là bài có 03 quân giống nhau, Liêng là 03 quân bài số liền kề nhau (Ví dụ: A, 2, 3; 5,6,7…), Ba Tiên là 03 bài có các quân J, Q, K. Tính điểm nếu 03 quân bài cộng lại được số điểm là 02 chữ số thì tính điểm từ hàng đơn vị, Ví dụ: Các quân 10, 4, 5 có tổng số điểm là 19 điểm thì được tính 9 điểm. Nếu 03 quân bài cộng lại chưa tới 02 chữ số thì cộng điểm trên các quân bài.

Cách chơi: Mỗi người chơi được chia 03 quân bài, để úp trên sòng bạc, đặt tiền như nhau tùy người chơi quy định (gọi là tiền đi mậu) rồi tố cược tiền, mở bài tính điểm phân định thắng thua. Nếu người chơi bỏ không tham gia tố ngay từ vòng tố đầu tiên thì thua số tiền đi mậu. Nếu người chơi đang tố mà bỏ không tiếp tục tham gia tố thì thua số tiền đã tố. Người chơi có bài lớn nhất thắng hết số tiền của những người tham gia đặt cược. Mỗi ván đặt cược 10.000đ (Mười nghìn đồng), mỗi lần tố thêm từ 10.000đ (Mười nghìn đồng) đến 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), không giới hạn số lần tố.

Đến 15 giờ 00 phút cùng ngày bị Công an xã H phát hiện về hành vi đánh bạc của các đối tượng trên, tạm giữ tại sòng bạc tổng số tiền của các con bạc là 3.700.000 đồng (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng), tạm giữ trên người bị cáo N số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng), 01 bộ bài Tây, 52 lá là công cụ sử dụng đánh bạc.

Về số tiền đánh bạc và kết quả thắng thua:

Lê Văn N đem theo số tiền là 650.000 đồng (Sáu trăm năm mươi nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc. Tại thời điểm bị phát hiện còn trên người có số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng), số tiền trên sòng của bị cáo là 340.000 đồng (Ba trăm bốn mươi nghìn đồng), như vậy bị cáo thắng bạc với số tiền là 90.000 đồng (Chín mươi nghìn đồng);

Đoàn Văn L đem theo số tiền là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc, số tiền trên sòng là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), như vậy Luận thua bạc với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng);

Lê Viết D đem theo số tiền là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc, số tiền trên sòng là 550.000 đồng (Năm trăm năm mươi nghìn đồng), như vậy Dũng thắng bạc với số tiền là 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng);

Trần Đăng H đem theo số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc, số tiền trên sòng là 580.000 đồng (Năm trăm tám mươi nghìn đồng), như vậy Hoàng thắng bạc với số tiền 280.000 đồng (Hai trăm tám mươi nghìn đồng);

Hoàng Nguyễn Cao Ng đem theo số tiền là 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc, số tiền trên sòng là 170.000 đồng (Một trăm bảy mươi nghìn đồng), như vậy Nguyên thua bạc với số tiền 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng);

Trần Văn T đem theo số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc, số tiền trên sòng là 210.000 đồng (Hai trăm mười nghìn đồng), như vậy Tài thắng bạc với số tiền 10.000 đồng (Mười nghìn đồng);

Lê Thái S đem theo số tiền là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) dùng hết vào việc đánh bạc, số tiền trên sòng là 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng), như vậy S thua bạc với số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng);

Ngoài ra, còn có số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) tại giữa chiếu bạc và 1.150.000 đồng (Một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) trên chiếu bạc của một người đàn ông không rõ lai lịch);

Như vậy, tổng số tiền các đối tượng trên đánh bạc là 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 130/CT-VKS TP.BMT ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Lê Văn N về tội Đánh bạc, theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự; điểm i, s khoản 1khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội: Đánh bạc, Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn N: Từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bộ bài Tây, loại 52 lá, đã qua sử dụng, là công cụ được sử dụng vào việc đánh bạc.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm nghìn đồng) đã tạm giữ là tiền sử dụng vào việc đánh bạc.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, tiến hành truy tìm, thu thập vật chứng, cũng như lấy lời khai của bị cáo và các đương sự khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận:

Do ý thức coi thường pháp luật, vào khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 10/11/2020, tại phòng tập thể của Công ty bê tông Long Phát thuộc Khu công nghiệp H, xã H, thành phố B, Lê Văn N (Ngày 21/01/2020, đã bị Công an xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc) có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức Cào Liêng với các đối tượng Đoàn Văn L, Lê Viết D, Trần Văn T, Trần Đăng H, Lê Thái S, Hoàng Nguyễn Cao Ng và 01 nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch), số tiền tham gia đánh bạc là 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm ngàn đồng);

Do đó bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, truy tố về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

''1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rằng mọi hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị dưới mọi hình thức là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm, vào ngày 21/01/2020, bị cáo Lê Văn N đã bị Công an xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc; nhưng do ý thức coi thường pháp luật bị cáo vẫn tiếp tục cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình; Do đó đối với bị cáo phải xử phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục riêng đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung trong toàn xã hội.

Tuy nhiên, Tại phiên Tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, ngoài ra bị cáo có cha ruột là ông Lê Văn T được chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, với nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội với sự giám sát, giáo dục của gia đình và UBND nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, có ích cho xã hội, ngoài ra do gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên xét thấy cần miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo là phù hợp .

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Đối với 01 (một) bộ bài Tây, loại 52 lá, đã qua sử dụng, là công cụ sử dụng để đánh bạc nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với số tiền 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm nghìn đồng) đã tạm giữ là tiền bị cáo và những người khác sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước là phù hợp.

[5] Các tình tiết khác: Đối với các đối tượng là Đoàn Văn L, Lê Viết D, Trần Văn T, Hoàng Nguyễn Cao Ng, Trần Đăng H và Lê Thái S đã tham gia đánh bạc dưới hình thức Cào liêng thắng thua bằng tiền với bị cáo Lê Văn N, với số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), bản thân các đối tượng trên không có tiền án, tiền sự về hành vi Đánh bạc, Gá bạc, Tổ chức đánh bạc. Công an xã H, thành phố B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đoàn Văn L, Lê Viết D, Trần Văn T, Hoàng Nguyễn Cao Ng, Trần Đăng H và Lê Thái S về hành vi Đánh bạc trái phép, phạt tiền 1.500.000 đồng/người là phù hợp;

Đối với căn phòng nơi xảy ra Đánh bạc: Quá trình điều tra vụ án xác định phòng nghỉ của nhân viên công ty bê tông Long Phát là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khu công nghiệp H, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do ông Hồ Minh C, sinh năm: 1970, trú tại: Số 40 đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuê lại để sử dụng cho nhân viên nghỉ ngơi. Việc bị cáo và những đối tượng khác sử dụng phòng nghỉ trên làm địa điểm đánh bạc thì anh C không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý đối với anh C và địa điểm đánh bạc là phù hợp;

Đối với nam thanh niên không rõ lai lịch là người cùng tham gia đánh bạc với N và các đối tượng trên nhưng đã bỏ về trước, hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra tách hành vi đánh bạc của người này ra khỏi vụ án, tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn N phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn N: 01 (Một) năm cải tạo không giam giữ. Thời điểm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Lê Văn N từ ngày Ủy ban nhân dân xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng đối với bị cáo Lê Văn N.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bộ bài Tây, loại 52 lá, đã qua sử dụng, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: Số tiền 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm nghìn đồng) là tiền sử dụng vào việc đánh bạc.

( Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/5/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều Tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk với Chi cục thi hành án dân sự Tp. B).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 135Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 22 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 133/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:133/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;