Bản án 133/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH B 

BẢN ÁN 133/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2021/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Quốc B, sinh ngày 07 tháng 12 năm 2003 tại H; nơi cư trú: Ấp S, xã Đ, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1980 và bà Hà Thị Đ, sinh năm 1979; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 cho đến nay. Có mặt.

2/ Mai Ngọc T, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2004 tại S; nơi cư trú: Ấp M, xã Đ, huyện K, tỉnh S; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Hoài N, sinh năm 1979 và bà Võ Thị H (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 đến ngày 04/10/2020. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khơi nơi cư trú từ ngày 02/02/2021 cho đến nay. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Quốc B:

Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1980 và bà Hà Thị Đ, sinh năm 1979; cùng trú tại: Ấp S, xã Đ, thành phố N, tỉnh H. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Mai Ngọc T:

1. Ông Mai Trường G, sinh năm 1979; địa chỉ: 60/1B khu phố T, phường A, thành phố T, tỉnh B. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Ông Mai Võ T, sinh năm 2000; địa chỉ: Ấp M, xã Đ, huyện K, tỉnh S. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T: Ông Cao Ngọc L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh B. Có mặt.

- Bị hại: Ông Hồ Trung Th, sinh năm 1991; địa chỉ: Ấp 2, xã X, huyện X, tỉnh Đ. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp S, xã Đ, thành phố N, tỉnh H. Có mặt.

2. Ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 2000; địa chỉ: 263B khu phố D, phường H, thành phố T, tỉnh B. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Mai Ngọc T rủ Nguyễn Quốc B đi cướp giật tài sản để bán thì Bảo đồng ý. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 24 tháng 9 năm 2020, bị cáo B điều khiển xe mô tô biển số 95E1 – 607.17 chở T đi tìm tài sản sơ hở để cướp giật. Khi đến trước số nhà 1/23A đường A thuộc khu phố H, phường B, thành phố T, tỉnh B, B và T nhìn thấy ông Hồ Trung Th đang điều khiển xe môtô cùng chiều phía trước đang để một điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng giữa quai nón bảo hiểm bên tai trái để nghe điện thoại. B liền điều khiển xe môtô vượt lên ép sát bên trái anh Th còn T dùng tay phải giật lấy điện thoại di động của anh Th nhưng điện thoại rơi xuống đường. B điều khiển xe môtô chở T bỏ chạy, anh Th nhặt điện thoại lên rồi điều khiển xe môtô đuổi theo B và T, khi đến trước cổng khu công nghiệp V thuộc khu phố X, phường B, thành phố T, tỉnh B thì phát hiện các bị cáo đang lưu thông cùng chiều phía trước nên anh Th vượt lên ép đầu xe của các bị cáo đồng thời tri hô cho người dân hỗ trợ bắt giữ và đưa các bị cáo về trụ sở Công an.

Theo biên bản định giá tài sản ngày 02/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, 64Gb màu trắng có giá trị 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 107/CT-VKS -TA ngày 11/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh B đã truy tố các bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Quốc B từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Mai Ngọc T từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, 64Gb màu trắng là tài sản hợp pháp của bị hại Hồ Trung Th nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Th là đúng pháp luật;

- Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150C màu đỏ-đen biển số 95E1 – 60717. Qua xác minh chủ sở hữu chiếc xe này là ông Nguyễn Văn T, cha ruột của bị cáo B, ông T cho Nguyễn Quốc V là anh ruột của bị cáo B để làm phương tiện đi lại. Ngày 24/9/2020, Nguyễn Quốc B điều khiển xe này chở anh V đón xe khách về quê, sau đó anh V nhờ B đem chiếc xe về phòng trọ cất. Việc B sử dụng xe này thực hiện hành vi phạm tội, ông T và anh V đều không biết, do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả cho ông Tâm là phù hợp.

Ý kiến của người bào chữa và người đại diện của bị cáo B và T: Thống nhất với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm trở về với gia đình, làm người có ích cho xã hội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Quốc V xác định đã nhận lại chiếc xe trên và không có ý kiến, yêu cầu gì khác.

Bị hại có đơn yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo tại phiên tòa. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trước số nhà 1/23A đường X thuộc khu phố khu phố H, phường B, thành phố T, tỉnh B, bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T đã thực hiện hành vi điều khiển xe mô tô biển số 95E1 – 607.17 và cướp giật tài sản của bị hại Hồ Trung Th là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, 64Gb màu trắng, qua định giá có giá trị là 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng). Do đó, Cáo trạng truy tố các bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Theo bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 1344/C09B ngày 03/3/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố H kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 3 năm 2021), Nguyễn Quốc B có độ tuổi từ 17 năm đến 17 năm 06 tháng, đồng thời theo Giấy khai sinh của Nguyễn Quốc B thể hiện bị cáo B sinh ngày 07 tháng 12 năm 2003 (đăng ký quá hạn), phù hợp với kết luận giám định. Như vậy, tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì B đã trên 17 tuổi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này.

[2.3] Theo Giấy khai sinh bị cáo Mai Ngọc T sinh ngày 03 tháng 11 năm 2004. Đồng thời căn cứ các tài liệu do Trạm y tế xã Đ, huyện K, tỉnh S cung cấp phù hợp với lời khai của người thân bị cáo, xác định bị cáo T sinh ngày 03/11/2004. Như vậy, tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo đã 15 tuổi 10 tháng 21 ngày, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này.

[2.4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần xử phạt mức án tương xứng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về vai trò, đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người chủ mưu, rủ rê và trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, còn bị cáo B là người giúp sức điều khiển xe chở bị cáo T thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, các bị cáo còn trẻ tuổi trình độ học vấn thấp, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo B, và áp dụng khoản 2 Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T.

[7] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo B là phù hợp, tuy nhiên mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo T là nghiêm khắc, vì bị cáo T thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự, mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với bị cáo không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định, do đó cần xử phạt bị cáo T mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Ý kiến của người bào chữa và người đại diện của bị cáo B và T là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, 64Gb màu trắng là tài sản hợp pháp của bị hại Hồ Trung Th nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Th là đúng pháp luật.

- Đối với 01 Xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150C màu đỏ-đen biển số 95E1 – 60717. Qua xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn T là cha ruột của Nguyễn Quốc B. Sau đó ông T cho Nguyễn Quốc V là anh ruột của bị cáo B để làm phương tiện đi lại. Ngày 24/9/2020, Nguyễn Quốc B điều khiển xe này chở anh V đón xe khách về quê, sau đó nhờ B đem chiếc xe này về phòng trọ cất. Việc B sử dụng xe này thực hiện hành vi phạm tội, ông T và anh V đều không biết, do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả cho ông T là phù hợp.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 91; khoản 1, khoản 2 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/9/2020.

- Xử phạt bị cáo Mai Ngọc T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 đến ngày 04/10/2020.

2. Về án phí:

Buộc các bị cáo Nguyễn Quốc B và Mai Ngọc T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 133/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:133/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;