Bản án 133/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 133/2020/HS-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 128/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Trương Văn H, sinh năm 1996 tại tỉnh C; hộ khẩu thường trú: Ấp 14, xã K, huyện U, tỉnh C; chỗ ở: Phòng số 04, nhà trọ D, khu phố T, phường T, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Bé T, sinh năm 1959 và bà Trần Thị P, sinh năm 1969; có 04 chị em, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất là bị cáo.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/3/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Tuấn D, sinh năm 2000 tại tỉnh K; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã N, huyện K, tỉnh K; chỗ ở: Phòng số 04, nhà trọ N, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Chí T, sinh năm 1978 và bà Trần Kim H, sinh năm 1978; bị cáo không có anh chị em.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/3/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 00 giờ 35 phút ngày 08/3/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp với Công an phường T, thị xã Bến Cát tiến hành tuần tra tại khu vực ngã ba đường TC1-N6A thuộc khu phố 6, phường T, thị xã Bến Cát. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện Trương Văn H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số 69H1-220.09 chở phía sau Trần Tuấn D có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và phát hiện túi áo phía trong, bên phải áo khoác Jean màu đen H đang mặc có 01 gói nylon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng. H và D khai nhận chất tinh thể màu trắng bị thu giữ là ma tuý đá.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 Gói nylon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 Điện thoại di động hiệu Samsung A51 gắn sim số 0374849482;

- 01 Xe mô tô hiệu Honda Air Blade biển số 69H1-220.09.

Tại Cơ quan điều tra, Trương Văn H và Trần Tuấn D khai nhận: H và D là bạn bè ngoài xã hội từ khoảng đầu năm 2020 đến nay. Khoảng 20 giờ, ngày 07/3/2020, H điều khiển xe mô tô biển số 69H1-220.09 đến khu vực thuộc khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát uống cà phê với D. D nảy sinh ý định sử dụng ma tuý nên D rủ H góp tiền mua ma túy sử dụng, H đồng ý. H không có tiền nên H nói D cho H mượn tiền để mua ma túy, khi nào H nhận lương sẽ trả lại tiền cho D, D đồng ý. D sử dụng điện thoại hiệu Samsung A51 gắn sim số 0374.849.482 gọi cho đối tượng tên V (Không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy. V hẹn D đến vòng xoay A thuộc thành phố T, tỉnh B lấy ma túy.

Sau đó, D nhờ H chở đi lấy ma túy. H điều khiển xe mô tô biển số 69H1- 220.09 chở D đến khu vực thuộc vòng xoay A gặp V. D đưa cho V số tiền 200.000 đồng. V cầm tiền của D và đi đâu không rõ. Khoảng 20 phút sau, V quay lại đưa cho H 01 gói nylon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng. H cất gói ma túy V đưa vào túi áo phía trong, bên phải áo khoác Jean màu đen H đang mặc sau đó H điều khiển xe mô tô biển số 69H1-220.09 chở D đi về phòng trọ của D để sử dụng ma túy. Đến 00 giờ 35 phút, ngày 08/3/2020, H đang điều khiển xe mô tô Honda Air Blade biển số 69H1-220.09 chở D đi về đến khu vực ngã ba đường TC1-N6A thuộc Khu phố 6, phường T, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an tiến hành kiểm tra phát hiện sự việc.

Theo Kết luận số 116/MT-PC09 ngày 16/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng: M = 0,1306 gam, loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định M = 0,1026 gam.

Đi với xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số 69H1-220.09, H khai nhận là xe của chị Trương Thùy L (sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: Ấp 14, xã L, huyện U, tỉnh C) là chị ruột của H. Chị L cho H mượn xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số 69H1-220.09 để đi làm. H sử dụng xe mô tô trên đi mua ma túy, chị L không biết. Ngày 20/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát xử lý vật chứng giao trả xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số 69H1-220.09 cho chị L.

Tại bản Cáo trạng số 138/CT-VKSBC ngày 25/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trương Văn H và Trần Tuấn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trương Văn H mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trần Tuấn D mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 Bì thư dán kín số 116/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,1026 gam Methamphetamine.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 và 01 sim số 0374849482.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đúng như nội dung Cáo trạng truy tố, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo Trương Văn H và Trần Tuấn D đã khai nhận: Vào ngày 08/3/2020, với sự đề xuất của bị cáo D, bị cáo H và bị cáo D đã có hành vi góp mỗi bị cáo 100.000 đồng đưa cho đối tượng tên V (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua 01 gói nylon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy trọng lượng 0,1306 gam loại Methamphetamine với giá 200.000 đồng nhằm mục đích sử dụng. Đến 00 giờ 35 phút cùng ngày, tại khu vực ngã ba đường TC1-N6A thuộc khu phố 6, phường T, thị xã Bến Cát, bị cáo H đang có hành vi cất giấu gói ma túy này trong túi áo phía trong, bên phải áo khoác Jean màu đen Hào đang mặc để H và D sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Xét các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết ma tuý là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép. Nhưng vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên các bị cáo vẫn cố tình phạm tội, bất chấp hậu quả. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Ma túy là một loại chất độc gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và cũng là mầm mống lan truyền căn bệnh của xã hội như HIV,... Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác.

Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, bản Cáo trạng số 138/CT-VKSBC ngày 25/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo H có ông ngoại là người có công với cách mạng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Xét về tính chất và mức độ phạm tội: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo D là người đề xuất việc phạm tội, bị cáo D cho bị cáo H mượn tiền để mua ma túy cùng sử dụng, bị cáo D cũng là người liên hệ với người bán ma túy để mua ma túy. Do đó tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo D là nặng hơn.

Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt các bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo nhằm cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp và có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Đối với hành vi mua bán ma túy của đối tượng tên V, hiện không rõ nhân thân, lai lịch. Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư dán kín số 116/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,1026 gam Methamphetamine (theo Kết luận Giám định số 116/MT-PC09 ngày 16/3/2020), là chất thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ. Nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 gắn sim số 0374849482. Xét đây là tài sản bị cáo D sử dụng để liên lạc mua bán ma túy về tàng trữ nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số 69H1-220.09 là tài sản của chị Trương Thùy L. Chị L không biết bị cáo H sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả xe mô tô cho chị L là phù hợp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trương Văn H và Trần Tuấn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều khoản áp dụng và mức hình phạt:

Căn cứ Điều 136, Điều 260, khoản 1 Điều 268, Điều 269 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trương Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 08/3/2020.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trần Tuấn D 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 08/3/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 Bì thư dán kín số 116/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,1026 gam Methamphetamine (theo Kết luận Giám định số 116/MT-PC09 ngày 16/3/2020).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 (không kiểm tra được model, seri của máy) và 01 sim số 0374849482 (không kiểm tra được số seri).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Các bị cáo Trương Văn H và Trần Tuấn D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 133/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:133/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;