Bản án 133/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 133/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 132/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Đức T, sinh ngày 19 tháng 4 năm 1979 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: số 5/651, đường B, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình L (đã chết) và bà Lê Thị T (đã chết); vợ: Nông Thị c (đã ly hôn); con: Có 01 con sinh năm 2006 hiện ở với mẹ; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số 217/2018/HSST ngày 27-11-2018 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; nhân thân: Ngày 13-4- 2005 bị Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt 100.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 19-8-2009 bị chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 (hai mươi tư) tháng. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-6- 2020 cho đến nay, có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Vi Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 45 phút ngày 12-6-2020, tổ công tác của Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại trước cửa nhà số 100 đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện, bắt quả tang Phạm Đức T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý; thu giữ trong lòng bàn tay trái của Phạm Đức T01 (một) gói giấy bên trong có chất bột màu trắng, tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen bạc và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA XI-01 màu đỏ đen.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Đức T khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 ngày 12-6-2020, Phạm Đức T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 29V7-29xx của anh Phạm Trung H đến khu vực cổng chợ Đ thuộc phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn để mua ma tuý về sử dụng. Tại đây bị cáo gặp và hỏi mua mua 01 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng với một người phụ nữ (không biết tên, tuổi, địa chỉ). Sau khi đứng đợi khoảng 03 phút, người phụ nữ quay lại và vứt xuống dưới chân bị cáo 01 gói giấy nhỏ màu trắng; bị cáo biết đó là gói ma tuý Heroine nên nhặt lên và cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng; trên đường đi thì bị Công an bắt quả tang, tạm giữ người và tang vật.

Tại Kết luận giám định số 176/KL-PC09 ngày 13-6-2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Đức T gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,133 gam (đã trừ bì).

Cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 17-8-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Phạm Đức T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Đức T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Đức T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Đức T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, trả lại cho bị cáo 01 điện thoại do không liên quan đến hành vi phạm tội. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Phạm Đức T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và kết quả giám định, Hội đồng xét xử thấy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Phạm Đức T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo biết tác hại của ma túy và các quy định của pháp luật về phòng chống ma túy nhưng do lối sống buông thả, ý thức chấp hành pháp luật kém nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Để có căn cứ quyết định mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[4] Bị cáo đã có 01 tiền án chưa được xoá án tích nay lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sụ năm 2015, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sụ đối với bị cáo. về tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét về nhân thân, bị cáo từng bị kết án, bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó là bài học cho bản thân mà vẫn tái sử dụng ma túy và tiếp tục phạm tội điều đó chứng tỏ bị cáo là người có nhân thân xấu.

[5] Để bị cáo có cơ hội cải tạo, đoạn tuyệt với ma túy đồng thời góp phần răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Xét thấy, việc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết.

[6] Về hình phạt bổ sung: Kết quả xác minh cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản riêng, sống phụ thuộc vào gia đình nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma tuý còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ; đối với 01 điện thoại di động do không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Đối với người phụ nữ bán ma tuý cho Phạm Đức T, do không biết rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ được, Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với quy định của pháp luật nên không xem xét.

[9] Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 29V7- 29xx thu giữ khi bắt bị cáo, cơ quan điều tra xác minh đó là xe của anh Phạm Trung H (em trai của bị cáo Phạm Đức T). Khi cho bị cáo mượn xe mô tô, anh Phạm Trung H không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma tuý. Trước khi vụ án được đưa ra xét xử, Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe mô tô nói trên cho anh Phạm Trung H, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo Phạm Đức T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 333; khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Đức T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Đức T01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 12-6-2020.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật sau giám định là chất ma tuý.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Đức T01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA XI-01, mau đỏ số IMEI1 359032042371740, số IMEI 2 359032042371757 (đã qua sử dụng).

(Những vật chng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành ph L, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18- 8-2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành ph Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Đức T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 133/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:133/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;