Bản án 133/2020/DS-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 133/2020/DS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - HỤI

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 35/2020/TLST-DS ngày 08 tháng 01 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 345/2020/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 337/2020/QĐST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ D (L), sinh năm 1985; địa chỉ: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

đơn Bà Đặng Thị Ngọc Đ, sinh năm 1992; địa chỉ: tổ B, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Huỳnh Tấn B, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 31/10/2019, nguyên đơn bà Nguyễn Th Mỹ D cho rằng, bà D có tham gia hụi do bà Đặng Thị Ngọc Đ làm chủ, loại hụi hoa hồng. Đến kỳ mở hụi, hụi viên nào mở giá hụi cao nhất thì được lĩnh hụi. Chủ hụi có trách nhiệm thu tiền các hụi viên khác giao cho hụi viên được lĩnh hụi và hưởng hoa hồng. Cụ thể:

+ Dây hụi thứ nhất: hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 01/5/2017 âm lịch, kết thúc ngày 01/6/2019, gồm 28 hụi viên, bà D tham gia 01 phần với tên trong danh sách hụi là “chị Linh”. Bà D góp hụi đến kỳ mở hụi 01/11/2018 âm lịch (được 20 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền vốn hụi mà bà D đã góp là 31.190.000 đồng. Nếu tính phần tiền lãi hụi mỗi tháng thì bà Đ nợ lại bà D số tiền 40.000.000 đồng.

+ Dây hụi thứ hai: hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở tháng 11/2018 âm lịch, bà D góp được 01 lần thì bà Đ ngưng khui và cũng chưa giao giấy hụi cho bà D. Sau kỳ mở hụi đầu tiên, bà D góp cho bà Đ số tiền 750.000 đồng, lãi hụi 250.000 đồng. Do đó, bà Đ nợ lại bà D 1.000.000 đồng.

+ Dây hụi thứ ba: hụi 200.000 đồng/tuần, mở ngày 20/4/2018 âm lịch, kết thúc ngày 17/11/2018, có 30 hụi viên, bà D tham gia 05 phần, không có danh sách hụi. Bà D là người lĩnh hụi cuối cùng của 05 phần còn lại. Tuy nhiên, bà Đ chỉ giao cho bà D số tiền hụi của 03 phần; còn lại 2 phần không giao. Tổng số tiền hụi bà D được lĩnh của 02 phần hụi này là 9.800.000 đồng; không nhớ rõ số tiền vốn và lãi hụi của 02 phần hụi này.

+ Dây hụi thứ tư: hụi 200.000 đồng/tuần, mở ngày 16/6/2018 âm lịch, không nhớ ngày kết thúc hụi, có 30 hụi viên, bà D tham gia 02 phần, không có danh sách hụi. Bà D góp hụi đến ngày 02/11/2018 (được 20 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền vốn của 20 lần mà bà D đã góp cho 05 phần hụi là 6.400.000 đồng, tiền lãi hụi 1.600.000 đồng. Do đó, bà Đ nợ lại bà D số tiền của 05 phần hụi là 8.000.000 đồng.

+ Dây hụi thứ năm: hụi 200.000 đồng/tuần, mở ngày 19/10/2018 âm lịch, không biết ngày kết thúc hụi, có 30 hụi viên, bà D tham gia 05 phần, không có danh sách hụi. Bà D góp hụi đến ngày 03/11/2018 (được 03 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền vốn của 03 lần mà bà D đã góp cho 05 phần hụi là 2.400.000 đồng, tiền lãi hụi 600.000 đồng. Do đó, bà Đ nợ lại bà D số tiền của 05 phần hụi là 3.000.000 đồng.

Tổng số tiền hụi mà bà Đ nợ bà D đối với 05 dây hụi là 61.800.000 đồng. Do bà Đ và ông Huỳnh Tấn B là vợ chồng, hôn nhân vẫn tồn tại và bà Đ mở hụi lấy lợi nhuận phục vụ sinh hoạt gia đình của bà Đ, ông B nên bà D yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả cho bà D số tiền hụi còn nợ 61.800.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, vào ngày 15/6/2020, bà D rút lại yêu cầu khởi kiện, không tiếp tục tranh chấp đối với 04 dây hụi gồm: d ây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở hụi tháng 11/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 20/4/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 16/6/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 19/10/2018 âm lịch. Đối với dây hụi 2.000.000 đồng/tháng mở ngày 01/5/2017 âm lịch, bà D rút lại yêu cầu trả lãi; chỉ yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả tiền vốn 31.190.000 đồng.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: tờ tự khai của bà Nguyễn Thị Mỹ D ngày 31/10/2019; các danh sách hụi viên (bản photo); đơn yêu cầu về việc rút lại một phần yêu cầu đơn khởi kiện ngày 15/6/2020.

- Bà Đặng Thị Ngọc Đ, ông Huỳnh Tấn B đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm; giữ nguyên việc rút một phần yêu cầu khởi kiện. Theo đó, chỉ yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả tiền vốn 31.190.000 đồng của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng mở ngày 01/5/2017 âm lịch, không yêu cầu trả lãi.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩ a vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ, ông B là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Từ ngày 01/5/2017 đến tháng 11/2018, bà D tham gia 05 dây hụi do bà Đ làm chủ, đã chầu được tổng cộng 61.800.000 đồng. Tháng 11/2018, bà Đ tuyên bố ngừng hụi. Nay bà D yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả 31.190.000 đồng; rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 30.610.000 đồng.

Bà Đ được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do.

Căn cứ để bà D khởi kiện là các giấy hụi do chính bà Đ lập và lời khai của những người làm chứng Võ Thị T, Phạm Thị M nên có cơ sở xác định giữa bà Đ, bà D có giao kết hợp đồng hụi. Do bà Đ tự ý ngưng hụi, vi phạm nghĩa vụ thanh toán của chủ hụi nên bà D khởi kiện là phù hợp với Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Đồi với ông B, tuy không trực tiếp giao dịch với bà D nhưng khoản nợ mà bà D yêu cầu phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà Đ, ông B. Cho nên, bà D yêu cầu ông B liên đới trả nợ là phù hợp quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Việc bà D rút lại yêu cầu khởi kiện 30.610.000 đồng thuộc quyền định đoạt của đương sự nên đề nghị đình chỉ theo các Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự; các Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D; buộc bà Đ, ông B liên đới trả cho bà D số tiền 31.190.000 đồng; đình chỉ yêu cầu khởi kiện bị rút.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về tố tụng

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Mỹ D khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Đặng Thị Ngọc Đ liên đới cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Tấn B trả nợ hụi. Bà Đ đang cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới nên yêu cầu kiện của bà D thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, bà Đ, ông B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ, ông B theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung [3] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng:

Theo đơn khởi kiện, bà D tranh chấp 05 dây hụi hoa hồng do bà Đ làm chủ gồm: dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở hụi tháng 11/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 20/4/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 16/6/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 19/10/2018 âm lịch và dây hụi 2.000.000 đồng/tháng mở ngày 01/5/2017 âm lịch. Đồng thời, yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả số tiền hụi còn nợ 61.800.000 đồng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bà D tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện, không tiếp tục tranh chấp đối với 04 dây hụi gồm: dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở hụi tháng 11/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 20/4/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 16/6/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 19/10/2018 âm lịch và tiền lãi của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng mở ngày 01/5/2017 âm lịch với tổng số tiền 30.610.000 đồng.

Vì vậy, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện bị rút theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xem xét yêu cầu khởi kiện còn lại của bà D, thấy rằng, bà D khai, bà Đ có làm chủ dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 01/5/2017 âm lịch, kết thúc ngày 01/6/2019 âm lịch, gồm 28 hụi viên, bà D tham gia 01 phần với tên trong danh sách hụi là “chị Linh”. Bà D góp hụi đầy đủ đến kỳ mở hụi 01/11/2018 âm lịch (được 20 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền mà bà D đã góp hụi là 31.190.000 đồng.

Trong số các tài liệu, chứng cứ do bà D cung cấp có danh sách hụi viên thể hiện dây hụi mở ngày 01/5/2017 âm lịch, có 28 hụi viên, trong đó, có hụi viên tên “chị L” tại số thứ tự 25.

Người làm chứng bà Võ Thị T, bà Phạm Thị M cung cấp, bà T, bà M có cùng với bà D tham gia dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 01/5/2017 âm lịch, kết thúc ngày 01/6/2019 âm lịch, gồm 28 hụi viên, do bà Đ làm chủ. Bà D tham gia 01 phần. Khi góp hụi đến kỳ mở hụi 01/11/2018 âm lịch (được 20 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Bà D chưa hốt phần hụi mà bà D tham gia. Tổng số tiền đã chầu hụi là 31.190.000 đồng.

Theo biên bản xác minh ngày 16/7/2020 do cán bộ Tòa án lập, đại diện Ban ấp T, xã T, huyện C cung cấp, bà Đ, ông B có tham gia mở hụi tại địa phương. Đến khoảng tháng 11/2018 âm lịch, bà Đ, ông B đi khỏi địa phương, không tiếp tục khui hụi, khoảng 01 năm sau quay về.

Theo biên bản xác minh ngày 16/7/2020 do cán bộ Tòa án lập, đại diện Công an xã T, huyện C cung cấp, cách nay (ngày 16/7/2020) khoảng 01 năm, người dân tham gia hụi do bà Đ, ông B làm chủ có đến trình báo với cán bộ xã về việc bà Đ, ông B vỡ hụi. Công an xã T có tiếp nhận hồ sơ của bà D để lấy lời khai.

Như vậy, lời khai của bà D phù hợp với danh sách hụi, thông tin do Ban ấp T, Công an xã T, lời khai của người làm chứng bà Võ Thị T, bà Phạm Thị M.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án ban hành T hông báo số 04/TB-TA ngày 05/3/2020 yêu cầu bà Đ, ông B cung cấp lời khai và giao nộp, bổ sung tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung sự việc và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bà Đ, ông B không thực hiện.

Vì vậy, có căn cứ xác định bà D có tham gia dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 01/5/2017 âm lịch do bà Đ làm chủ và bà Đ còn nợ lại bà D nợ vốn với số tiền 31.190.000 đồng.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Bà D yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả tiền vốn 31.190.000 đồng của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng mở ngày 01/5/2017 âm lịch.

Xem xét yêu cầu liên đới thấy rằng, mặc dù, ông B không cùng bà Đ xác lập hợp đồng về hụi với bà D nhưng bà Đ và ông B là vợ chồng, vẫn còn sống chung với nhau và bà Đ sử dụng tiền thu được từ việc mở các dây hụi để phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình bà Đ, ông B. Cho nên, chấp nhận yêu cầu của bà D về việc buộc ông B liên đới cùng bà Đ trả nợ.

Về tiền lãi chậm thanh toán, bà D không yêu cầu trả lãi là có lợi cho người có nghĩa vụ nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Vì vậy, buộc bà Đ, ông B liên đới trả cho bà D nợ hụi với số tiền 31.190.000 đồng theo quy định tại các Điều 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Đ, ông B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho bà D là 1.559.500 đồng.

Bà D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho bà D số tiền tạm ứng án phí 1.545.000 đồng mà bà D đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ các Điều 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 147, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/U TVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D về việc yêu cầu bà Đặng Thị Ngọc Đ và ông Huỳnh Tấn B liên đới trả số nợ 30.610.000 (ba mươi triệu, sáu trăm mười nghìn) đồng trong số 61.800.000 (sáu mươi mốt triệu, tám trăm nghìn) đồng theo đơn khởi kiện đối với việc tranh chấp 04 dây hụi gồm: dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở hụi tháng 11/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 20/4/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 16/6/2018 âm lịch; dây hụi 200.000 đồng/tuần, mở hụi ngày 19/10/2018 âm lịch và tiền lãi của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng mở ngày 01/5/2017 âm lịch.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D.

Buộc bà Đặng Thị Ngọc Đ và ông Huỳnh Tấn B liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Mỹ D số nợ hụi 31.190.000 (ba mươi mốt triệu, một trăm chín mươi nghìn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Đặng Thị Ngọc Đ và ông Huỳnh Tấn B phải chịu 1.559.500 (một triệu, năm trăm năm mươi chín nghìn, năm trăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị Mỹ D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Mỹ D số tiền tạm ứng án phí 1.545.000 (một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng mà bà D đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0007848 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới cấp ngày 08 tháng 01 năm 2020.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị Mỹ D có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Đặng Thị Ngọc Đ, ông Huỳnh Tấn B được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trưng hợp bản án, quyết đnh được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc b cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đ nh tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 133/2020/DS-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi

Số hiệu:133/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;