Bản án 132/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HN, TỈNH BĐ

BẢN ÁN 132 /2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã HN, tỉnh BĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2020/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Q, sinh năm 1994 HKTT: Khu phố ThTh 2, phường HX, thị xã HN, tỉnh BĐ Nơi ở: Thôn LD, xã HM, thị xã HN, tỉnh B Đ

Bị đơn: Anh Trần Quốc T, sinh năm 1990 HKTT: Khu phố ThTh 2, phường HX, thị xã HN, tỉnh BĐ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Q trình bày: Chị và anh Trần Quốc T tự nguyện xây dựng gia đình với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HX, huyện HN, tỉnh BĐ vào ngày 09 tháng 01 năm 2013. Trong thời gian chung sống, vợ chồng không hạnh phúc nguyên nhân là do anh T sống không có trách nhiệm với vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt, đánh đập vợ con, hiện vợ chồng đang sống ly thân. Nay tình cảm không còn, chị Q yêu cầu ly hôn anh T.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Quốc Đ, sinh ngày 10/9/2013 và Trần Quốc Ph, sinh ngày 28/6/2016. Ly hôn, chị Q yêu cầu nuôi hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án yêu cầu anh T có mặt tại Tòa để làm việc nhưng anh cố tình trốn tránh, không hợp tác, không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70; 72 và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ theo quy định tại các Điều 91; 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Do vậy, Toà án xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định, bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Q; Giao 02 con chung cho chị Q nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Về chia tài sản chung, nợ chung: đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Phạm Thị Q có đơn khởi kiện ly hôn với anh Trần Quốc T có nơi thường trú tại khu phố ThTh 2, phường HX, thị xã HN, tỉnh BĐ. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã HN, tỉnh B Đ.

[2] Về thủ tục tố tụng tại Tòa: Bị đơn anh Trần Quốc T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng cố tình trốn tránh, không có mặt tại Tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Q và anh T tuân thủ đúng quy định tại Điều 8; Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án yêu cầu anh T có mặt tại Tòa để làm việc nhưng anh cố tình trốn tránh, không hợp tác, không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70; 72 và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ theo quy định tại các Điều 91; 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Do vậy, Toà án xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Qua nhiều lần xác minh cho thấy anh T đang sống chung hộ khẩu với bà Nguyễn Thị Th tại khu phố Th Th 2, phường HX, thị xã HN, tỉnh B Đ. Hiện vợ chồng đang sống ly thân và không ai có một biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng, cho thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị Q yêu cầu ly hôn, căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị.

[5] Về nuôi con chung: Xét yêu cầu của chị Q được nuôi con chung vì hiện nay các con đang ở với chị, đồng thời nguyện vọng của cháu Đ cũng muốn sống với mẹ. Căn cứ các điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình, giao hai cháu Đ và cháu Ph cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và đảm bảo ổn định về mọi mặt cho các cháu. Tại phiên tòa hôm nay, ghi nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HN tại phiên Tòa hôm nay là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Q, chị Q được ly hôn anh Trần Quốc T.

- Về con chung: Giao hai cháu Trần Quốc Đ, sinh ngày 10/9/2013 và cháu Trần Quốc Ph, sinh ngày 28/6/2016 cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Q đã nộp theo biên lai thu số 0000104 ngày 08 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã HN.

- Về quyền kháng cáo: Chị Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày được niêm yết.

- Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 132/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:132/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;