Bản án 132/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 132/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 492/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020 về việc ““Tranh chấp Hôn nhân & Gia đình, ly hôn”” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 03 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa sô 157/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 03 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Dương Thị M, sinh năm 1998; nơi cư trú: tổ 43, ấp H, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc B, sinh năm 1996; nơi cư trú: tổ 38, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà M vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông B vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Dương Thị M trình bày: Hôn nhân giữa bà và ông B là do tự tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2012, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ năm 2017. Vợ chồng bà chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cải, cuộc sống không hòa hợp, ông B không quan tâm đến bà nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn. Bà và ông B sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay bà M yêu cầu được ly hôn với ông B.

Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 04/9/2013, hiện do ông B nuôi dạy. Khi ly hôn, bà M đồng ý để ông B được nuôi dạy con chung. Bà M không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà M xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp để các đương sự thực hiện quyền tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định nhưng ông Nguyễn Quốc B vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án nên Tòa án ghi nhận sự vắng mặt ông B và không tiến hành hòa giải được.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản ghi lời khai ngày 02/02/2021, được bà Đ cho biết: Bà là mẹ ruột của bà M, hôn nhân giữa bà M và ông B là do tự tìm hiểu và chung sống vào năm 2012, có đăng ký kết hôn. Bà M và ông B chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng M thường xuyên cự cải, cuộc sống không hòa hợp, ông B không quan tâm đến vợ con nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay không ai quan tâm đến ai. Bà M và ông B có 01 chung tên Nguyễn Quốc K, hiện do ông B nuôi dạy.

Tại biên bản xác minh ngày 03/3/2021 được bà Nguyễn Thị Kim P – Công an viên xã Đ cho biết: Ông Nguyễn Quốc B có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương và thường xuyên sinh sống tại địa phương.

Tại Phiên Tòa, bà M vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng ông B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông B theo thủ tục chung.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi; thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thị M và ông Nguyễn Quốc B có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào ngày 10/03/2017. Xét đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, việc mâu thuẫn giữa ông B và bà M không thể hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà M được ly hôn với ông B.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 04/9/2013, con chung hiện nay do ông B nuôi dạy nên khi ly hôn bà M đồng ý để ông B được tiếp tục nuôi dạy con chung. Bà M không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Xét thấy con chung hiện do ông B nuôi dạy. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho ông B tiếp tục nuôi.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, do ông B chưa yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà M xác định không có, Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến ông B nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Dương Thị M khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Quốc B, đồng thời bị đơn cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Bà M vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông B được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà M, ông B theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông B do tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào ngày 10/3/2017 theo quy định nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của bà M xin ly hôn với ông B. Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà M và ông B đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có đứng ra hòa giải nhưng không thành. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà M và ông B đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà M là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Bà Dương Thị M và ông Nguyễn Quốc B có 01 con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 04/9/2013, hiện cháu K đang sống với ông B. Khi ly hôn, bà M đồng ý giao cháu K cho ông B được tiếp tục nuôi. Xét thấy, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao cháu K cho ông B tiếp tục nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do ông B vắng mặt, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông B về việc cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập xem xét, nếu ông B có yêu cầu về mức cấp dưỡng sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết:

Ông B cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà M trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà M khai không có và Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông B nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xư: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị M.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thị M được ly hôn với ông Nguyễn Quốc B.

Giấy chứng nhận kết hôn số 51/2017 ngày 10/03/2017 do Ủy ban nhân dân xã Đ cấp không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Ông Nguyễn Quốc B được tiếp tục nuôi dạy con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 04/9/2013. Bà Dương Thị M không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Ông B cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà M trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

Về án phí: Bà Dương Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006852 ngày 22/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (Bà M đã nộp đủ).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 132/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:132/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;