TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 132/2020/HSST NGÀY 15/07/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM
Ngày 15/7/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 124/2020/HSST ngày 05/6/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2020/QĐXXST-HS ngày 18/6/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 02 ngày 29/6/2020 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Lê Đình D. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam Sinh năm 1983. Tại tỉnh T. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 22 (nay là thôn T) xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lái xe. Trình độ văn hoá: 8/12.
Con ông: Lê Đình Q, sinh năm 1954; Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1959. Gia đình bị cáo có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình. Bị cáo có vợ: Cà Thị L, sinh năm 1990. Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017. Tiền án; Tiền sự: Không: Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa án xét xử. Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 21/01/2020, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Bà Trần Thị T, sinh năm 1972, trú tại số nhà 83 (tổ 4 cũ) nay là tổ dân phố 2, phường M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.(vắng mặt).
Doanh nghiệp tư nhân xây dựng thương mại H. Địa chỉ Tổ 3, phường M, TP P. (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Đình D lái xe cho Doanh nghiệp tư nhân xây dựng thương mại Hải H có trụ sở tại tổ 3, phường M, thành phố P, tỉnh Điện Biên. Ngày 17/11/2019, D được Doanh nghiệp giao nhiệm vụ lái xe ô tô tải BKS 27C-008.99 vận chuyển vật liệu xây dựng sang tỉnh U (thuộc nước CHDCND L). Ngày 20/11/2019, khi D đang điều khiển xe ô tô quay trở về Việt Nam, thì Trần Thị T là người quen của D gọi điện thoại đến thuê D chở tê tê, rùa và xương động vật rừng từ bãi đá T về thành phố P, sau khi trao đổi thỏa thuận, D đồng ý chở thuê cho T với giá 200.000đ/kg. Khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi làm thủ tục tại Cửa khẩu quốc tế T nhập cảnh vào Việt Nam, D điều khiển xe ô tô đến khu vực đầu bãi đá T thì thấy phía bên phải đường có một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi đầu đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang đang đứng cạnh một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon đa Wave α, không có biển kiểm soát, người đàn ông vẫy tay ra hiệu cho D dừng xe, qua trao đổi người đàn ông này đã gửi cho Trần Thị T gồm: 01 con tê tê, 08 con rùa đầu to và 02 bao xương nhỏ, D cho toàn bộ số hàng vào khoang đầu của thùng xe ô tô, rồi tiếp tục điều khiển xe đi tiếp về hướng thành phố P, khi đi được khoảng 01 km D nhìn thấy phía bên phải theo chiều đi có một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi đang đứng bán thịt ở ven đường, Dũng dừng xe lại hỏi thì được biết người đàn ông bán hàng thịt sơn dương và 01 bao tải xương bò, sau khi trao đổi D đã mua được của người đàn ông 35kg thịt sơn dương với giá 1.400.000đ và 17kg xương bò giá 200.000đ. Mục đích D mua về để sử dụng, D cất số thịt sơn dương và xương bò lên thùng xe gần với số động vật chở thuê cho T, sau đó dùng bạt che phủ lên tất cả số hàng có trên thùng xe và điều khiển xe đi về hướng thành phố P. Khi D đi đến khu vực gần nhà máy xi măng ĐB thuộc xã P, huyện Đ thì xe bị thủng lốp D điều khiển xe ô tô vào gara sửa chữa ô tô B để sửa lốp xe. Khoảng 17 giờ cùng ngày khi D đang đợi sửa xe thì bị tổ công tác Đội Kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng tỉnh Đ đến kiểm tra phát hiện, thu giữ trên thùng xe ô tô của D gồm: 01 cá thể Tê tê, trọng lượng 4,5kg, đựng trong bao tải dứa; 08 cá thể rùa đầu to, trọng lượng 4,5kg, đựng trong bao tải dứa màu vàng; 35kg thịt Sơn dương đựng trong bao tải dứa; 01 bao tải dứa bên trong chứa 01 bộ xương có trọng lượng là 01kg được cuốn lại bằng nilon và 01 bộ xương có trọng lượng là 05kg được cuốn bằng nilon; 01 bao tải dứa bên trong chứa xương động vật trọng lượng là 17kg. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản tạm giữ toàn bộ tang vật, phương tiện, giấy tờ liên quan để điều tra xử lý.
Tại các Kết luận giám định số 1016 ngày 29/11/2019 và Kết luận giám định số 1060 ngày 17/12/2019 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật - Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam kết luận 01 cá thể động vật còn sống là loài Tê tê Java (tên khoa học là Manis Javanica), 08 cá thể động vật còn sống là Rùa đầu to (tên khoa học là Platysternon Megacephalum), 35kg sản phẩm động vật rừng là thịt của một con Sơn dương (tên khoa học là Capricornis Milneedwardsii), 01 kg xương (gồm xương hộp sọ, hàm dưới, hai xương bả vai, các xương ống và một số xương vụn) là của một cá thể Báo gấm (tên khoa học là Neofelis Nebolusa), 05kg xương (gồm xương hộp sọ, hàm dưới, hai xương bả vai, đoạn xương sống, các xương ống và một số xương vụn) là của loài Gấu ngựa có tên khoa học (Ursus Thibetanus).
Tất cả những cá thể động vật nêu trên đều có tên trong Phụ lục I, Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ (Ban hành kèm theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP, ngày 16/7/2019 của Chính phủ); có tên trong Nhóm IB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm (Ban hành kèm theo Nghị định số 06/2019/NĐ-CP, ngày 22/01/2019 của Chính phủ); có tên trong Phụ lục I CITES, Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (Ban hành kèm theo Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT ngày 24/02/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), còn 17kg xương ống có kích thước hình dạng khác nhau là của Bò nuôi thông thường.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 28 ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 cá thể động vật còn sống là loài Tê tê Java; 08 cá thể Rùa đầu to, 35kg thịt của một con Sơn dương, 01 kg xương của loài Báo gấm và 05kg xương của loài Gấu ngựa. Tất cả các mặt hàng trên là động vật hoang dã, quý hiếm nằm trong danh mục của công ước về buôn bán các loài động thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bản vệ, không có giá trên thị trường.
Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKSĐB ngày 03/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lê Đình D về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm" theo điểm a khoản 2 Điều 244/BLHS năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 244; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lê Đình D từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/Bộ luật Hình sự 2015; điểm c khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Căn cứ khoản 2 Điều 136/Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1].Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Đình D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản kiểm tra lâm sản, biên bản kiểm tra phương tiện vận tải, biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Biên bản mở niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ; Kết luận định giá tài sản; Kết luận giám định động vật; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.
[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Ngày 17/11/2019, Dũ được Doanh nghiệp giao nhiệm vụ lái xe ô tô tải BKS 27C-008.99 vận chuyển vật liệu xây dựng sang tỉnh U (thuộc nước CHDCND L). Ngày 20/11/2019, khi D đang điều khiển xe ô tô quay trở về Việt Nam, thì Trần Thị T là người quen của D gọi điện thoại đến thuê D chở tê tê, rùa và xương động vật rừng từ bãi đá T về thành phố P, sau khi trao đổi thỏa thuận, D đồng ý chở thuê cho T với giá 200.000đ/kg. Khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi làm thủ tục tại Cửa khẩu quốc tế T nhập cảnh vào Việt Nam, D điều khiển xe ô tô đến khu vực đầu bãi đá T thì thấy phía bên phải đường có một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi đầu đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang đang đứng cạnh một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon đa Wave α, không có biển kiểm soát, người đàn ông vẫy tay ra hiệu cho D dừng xe, qua trao đổi người đàn ông này đã gửi cho Trần Thị T gồm: 01 con tê tê, 08 con rùa đầu to và 02 bao xương nhỏ, D cho toàn bộ số hàng vào khoang đầu của thùng xe ô tô, rồi tiếp tục điều khiển xe đi tiếp về hướng thành phố P, khi đi được khoảng 01 km D nhìn thấy phía bên phải theo chiều đi có một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi đang đứng bán thịt ở ven đường, D dừng xe lại hỏi thì được biết người đàn ông bán hàng thịt sơn dương và 01 bao tải xương bò, sau khi trao đổi D đã mua được của người đàn ông 35kg thịt sơn dương với giá 1.400.000đ và 17kg xương bò giá 200.000đ. Mục đích D mua về để sử dụng, D cất số thịt sơn dương và xương bò lên thùng xe gần với số động vật chở thuê cho T, sau đó dùng bạt che phủ lên tất cả số hàng có trên thùng xe và điều khiển xe đi về hướng thành phố P. Khi D đi đến khu vực gần nhà máy xi măng Đ thuộc xã P, huyện Đ thì xe bị thủng lốp D điều khiển xe ô tô vào gara sửa chữa ô tô B để sửa lốp xe. Khoảng 17 giờ cùng ngày khi D đang đợi sửa xe thì bị tổ công tác Đội Kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng tỉnh Điện Biên đến kiểm tra phát hiện, thu giữ trên thùng xe ô tô của Dũng gồm: 01 cá thể Tê tê, trọng lượng 4,5kg; 08 cá thể rùa đầu to, trọng lượng 4,5kg; 35kg thịt Sơn dương; 01 bao tải dứa bên trong chứa 01 bộ xương có trọng lượng là 01kg được cuốn lại bằng nilon và 01 bộ xương có trọng lượng là 05kg được cuốn bằng nilon; 01 bao tải dứa bên trong chứa xương động vật trọng lượng là 17kg.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo tại các bản kết luận giám định động vật số 1016/STTNSV ngày 29/11/2019 và Kết luận giám định số 1060 ngày 17/12/2019 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật - Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam kết luận: 01 cá thể động vật còn sống là loài Tê tê Java (tên khoa học là Manis Javanica), 08 cá thể động vật còn sống là Rùa đầu to (tên khoa học là Platysternon Megacephalum), 35kg sản phẩm động vật rừng là thịt của một con Sơn dương (tên khoa học là Capricornis Milneedwardsii), 01 kg xương (gồm xương hộp sọ, hàm dưới, hai xương bả vai, các xương ống và một số xương vụn) là của một cá thể Báo gấm (tên khoa học là Neofelis Nebolusa), 05kg xương (gồm xương hộp sọ, hàm dưới, hai xương bả vai, đoạn xương sống, các xương ống và một số xương vụn) là của loài Gấu ngựa có tên khoa học (Ursus Thibetanus).
Tất cả những cá thể động vật nêu trên đều có tên trong Phụ lục I, Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ (Ban hành kèm theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP, ngày 16/7/2019 của Chính phủ); có tên trong Nhóm IB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm (Ban hành kèm theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP, ngày 22/01/2019 của Chính phủ); có tên trong Phụ lục I CITES, Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (Ban hành kèm theo Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT ngày 24/02/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Còn 17kg xương ống có kích thước hình dạng khác nhau là của Bò nuôi thông thường Tại bản kết luận định giá tài sản số 28 ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 cá thể động vật còn sống là loài Tê tê Java; 08 cá thể Rùa đầu to, 35kg thịt của một con Sơn dương, 01 kg xương của loài Báo gấm và 05kg xương của loài Gấu ngựa. Tất cả các mặt hàng trên là động vật hoang dã, quý hiếm nằm trong danh mục của công ước về buôn bán các loài động thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bản vệ, không có giá trên thị trường.
Mục đích vận chuyển: 01cá thể Tê tê Java; 08 cá thể Rùa đầu to; 01 kg xương của loài Báo gấm và 05kg xương của loài Gấu ngựa theo bị cáo khai là chở thuê cho người phụ nữ tên Trần Thị T người quen của D nhà ở thành phố P. 35kg thịt của một con Sơn dương và 17kg xương ống của loài Bò nuôi thông thường bị cáo đem về sử dụng.
Bị cáo D cất số thịt sơn dương và xương bò lên thùng xe gần với số động vật chở thuê cho T, sau đó dùng bạt che phủ lên tất cả số hàng có trên thùng xe và điều khiển xe đi về hướng thành phố P sau đó bị phát hiện thu giữ.
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm" theo điểm a khoản 2 Điều 244/BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 5 năm đến 10 năm tù.
Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đụng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hành sự trước pháp luật về hành vi phạm tộ của mình gây ra.
[3]. Xét tính chất mức độ hành vi của của bị cáo đã xâm hại đến sư tồn tại và phát triển của động vật hoang dã quý, hiếm, nguy cấp được ưu tiên bảo vệ. Gây thiệt hại cho môi trường sinh thái, xâm phạm đến sự phát triển bền vững và ổn định của môi trường sinh thái, cảnh quan và xâm phạm vào loài động vật giữ vai trò quyết định trong việc duy trì sự cân bằng của các loài khác trong quần xã có tính đại diện hay tính độc đáo của khu vực địa lý tự nhiên.
Bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển các cá thể Tê tê, Rùa và xương gấu là vi phạm pháp luật.
[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:
Bản thân được gia đình nuôi ăn học hết lớp 8/12 nghỉ học, năm 2011 lập gia đình với Cà Thị L, năm 2016 lái xe cho doanh nghiệp xây dựng H. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo đã tích cực giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm mới, bản thân được chính quyền địa phương xã N xác nhận là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo không có việc làm và thường xuyên ốm đau bị cáo có hai con nhỏ nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015.
Mặc dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.
[5]. Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại khoản 4 Điều 244/BLHS. XÐt hoàn cảnh kinh tế kho khăn nên không có điều kiện thi hành án. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.
[6]. Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bị cáo Dũng khai Trần Thị T là người đã thuê bị cáo chở 01cá thể Tê tê Java; 08 cá thể Rùa đầu to; 01 kg xương của loài Báo gấm và 05kg xương của loài Gấu ngựa về thành phố Điện Biên Phủ. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, lấy lời khai và tiến hành đối chất giữa Thu và Dũng, tuy nhiên Thu không thừa nhận, nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý đối với Trần Thị Thu. Vì vậy HĐXX không xem xét hình thức xử lý đối với Thu.
Đối với Doanh nghiệp tư nhân xây dựng thương mại Hải Hưng, chủ sở hữu chiếc ô tô tải BKS 27C-008.99 không yêu cầu Lê Đình D phải bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của Dũng đã gây ra cho doanh nghiệp, HĐXX chấp nhận.
Đối với người đàn ông đã gửi Tê tê, Rùa đầu to, xương Báo gấm, xương Gấu ngựa và người đàn ông dân tộc Mông bán thịt Sơn dương và xương bò cho Lê Đình D, do D không biết tên, địa chỉ của những người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. HĐXX không xem xét.
[7]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[8]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS 2015; điểm c khoản 2, điểm c, d khoản 3 Điều 106/BLTTHS 2015.
Ngày 04/12/2019, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đ, đã bàn giao 01 con Tê tê Java còn sống, 08 con Rùa đầu to còn sống cho Trung tâm Bảo tồn động vật hoang dã tại Việt Nam để cứu hộ bảo tồn loài, chăm sóc quản lý và phục vụ công tác nghiên cứu khoan học theo Quyết định xử lý vật chứng số 01 ngày 04/12/2019 Chi cục Kiểm lâm tỉnh Điện Biên, HĐXX chấp nhận. Ngày 18/12/2019, Đội kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng đã trả lại 01 Giấy phép vận chuyển liên vận Việt - Lào; 01 Giấy phép lái xe; 01 Chứng minh nhân dân cho Lê Đình D, HĐXX chấp nhận.
Ngày 20/11/2019 cơ qua điều tra thu giữ 01 xe ô tô khách Huyndai màu sơn trắng sản xuất năm 2012 biển kiểm soát 27C-008.99 là xe của Doanh nghiệp tư nhân xây dưng thương mại Hải Hưng. Ngày 21/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ trả lại 01 xe ô tô tải BKS 27C-008.99, nhãn hiệu Hyundai, màu sơn trắng cho chủ sở hữu là Doanh nghiệp tư nhân xây dưng thương mại H, theo Quyết định xử lý vật chứng số 16 ngày 21/01/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, HĐXX chấp nhận.
Ngày 03/4/2020 Hội đồng xử lý vật chứng đã tiến hành tiêu hủy 35kg sản phẩm động vật rừng do đã bị phân hủy (gồm toàn bộ hai đùi và chân sau, toàn bộ 1 đùi và chân trước) là bộ phận không thể tách rời của một cá thể loài Sơn dương bằng hình thức chôn xuống đất. Theo Quyết định xử lý vật chứng số 29 ngày 01/4/2020 của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, HĐXX chấp nhận.
Ngày 10/01/2020,Cơ quan điều tra Công an huyện Đ đã tạm giữ 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A9 của Lê Đình D. Quá trình điều tra không đủ cơ sở chứng minh là công cụ phương tiện phạm tội. Đối với 17kg xương theo kết luận giám định động vật là của loài bò nuôi thông thường không phải là vật chứng của vụ án do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Đ đã trả lại 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A9 và 17kg xương bò cho bị cáo Lê Đình D, theo Quyết định xử lý vật chứng số 37 ngày 15/5/2020, HĐXX chấp nhận.
[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại Điều 136/BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 244; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015;
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình D phạm tội: “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.
2. Xử phạt bị cáo Lê Đình D 05 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện đi chấp hành án, hoặc bị bắt đi chấp hành án.
3. Vật chứng: Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; điểm c khoản 2, điểm c, d khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015.
Chấp nhận biên bản giao nhận động vật hoang dã ngày 04/12/2019 giữa Chi cục Kiểm lâm tỉnh Điện Biên và Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam. Chấp nhận các biên bản về việc trả lại tài sản ngày 21/01/2020 của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ cho Doanh nghiệp tư nhân xây dưng thương mại H; Biên bản trả lại tài sản ngày 18/12/2019 và 15/5/2020 cho Lê Đình D.
Chấp nhận biên bản xử lý vật chứng ngày 03/4/2020 của Hội đồng xử lý vật chứng đã tiến hành tiêu hủy 35kg sản phẩm động vật rừng do đã bị phân hủy.
Tịch thu để tiêu hủy 01 kg xương (gồm xương hộp sọ, hàm dưới, hai xương bả vai, các xương ống và một số xương vụn) là của một cá thể Báo gấm (tên khoa học là Neofelis Nebulosa), 05kg xương (gồm xương hộp sọ, hàm dưới, hai xương bả vai, đoạn xương ống, các xương ống và một số xương vụn) là của loài Gấu ngựa có tên khoa học (Ursus Thibetanus). (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 11/6/2020).
4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Đình D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/7/2020).
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc bản án được niêm yết
Bản án 132/2020/HSST ngày 15/07/2020 về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm
Số hiệu: | 132/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về