Bản án 132/2020/HS-PT ngày 11/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 132/2020/HS-PT NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 11/12/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 160/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo Vũ Thị T và Vũ Quang N do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2020/HS-ST ngày 26/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Vũ Thị T, sinh ngày 13/3/2003; Nơi sinh: xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn D (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; bị cáo có 01 con sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo T: bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ của bị cáo T), sinh năm 1964; Nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bào chữa cho bị cáo T: Ông Phạm Văn Đ - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương. Có mặt.

2. Vũ Quang N, sinh năm 1999; Nơi sinh: xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: thôn M, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Z và bà Vũ Thị O; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 08/6/2020 đến nay. Có mặt.

Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị: Lê Xuân A1, Vũ Ngọc C, Nguyễn Trung A3, Vũ Xuân A4, Vũ Đức A.

- Bị hại không kháng cáo:

1. Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; Nơi cư trú: thôn T, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn A2, sinh năm 1994; Nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị A5, sinh năm 1973; Nơi cư trú: thôn M, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 01/8/2019, Vũ Thị T điều khiển xe mô tô Honda Wave BKS 34B4-184.xx (mượn của chị Vũ Thị N, sinh ngày 28/4/2002 ở thôn M, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương) đi cùng chị Lê Thúy H, sinh ngày 23/9/2002 ở thôn H, xã T, huyện B đến thôn P, xã T, huyện B để uống nước. Trên đường đi, T gặp anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1994, là người cùng thôn điều khiển xe mô tô Exciter BKS 34B4-199.xx đi phía sau vượt lên, đánh võng trêu T. T dùng điện thoại Iphone 7 Plus lắp sim số 0356.679.xxx gọi đến số 0967.934.xxx cho người yêu là Lê Xuân A1 nói cho A1 biết việc mình bị trêu và nhờ A1 tìm người trêu đánh trả thù, A1 đồng ý. T và chị H tiếp tục đi đến ngã 4 thôn M giao với đường Tỉnh lộ 394 thì dừng lại để chị H đi đón chị N. Lúc này anh V đang đứng đợi anh Nguyễn Văn E, sinh năm 1991, ở thôn L, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương để cùng đi làm ca đêm tại Khu công nghiệp P, huyện C. T yêu cầu anh V đứng lại đợi A1, nhưng sau đó anh E điều khiển xe mô tô Honda Wave BKS 33N7-35xx (mượn của ông Nguyễn Đức K, sinh năm 1964 ở thôn H, xã L, huyện K - là chú ruột) đến thì anh V và anh E đi làm theo hướng đi qua thôn M, xã T đi lên thị trấn K.

Lê Xuân A1 sau khi nhận được điện thoại của T nhờ tìm đánh người trêu, A1 đồng ý và hỏi vị trí và đặc điểm phương tiện để dễ dàng nhận biết. T nói đang ở C (là tên gọi khác của thôn M), người trêu T đi xe Exciter màu đỏ - trắng. Tại nhà A1 lúc này có anh Vũ Thanh Q, sinh ngày 03/11/2002 ở cùng thôn M, xã T (là bạn của A1) ngồi chơi. A1 điều khiển xe mô tô Exciter BKS 34B4-596.xx đi tìm người đã trêu T để đánh thì anh Q tự ngồi lên phía sau xe để đi chơi cùng A1 (A1 không nói cho anh Q biết việc đi tìm đánh người đã trêu T).

Khi đi đến đầu ngõ thì A1 gặp Vũ Ngọc A2 đi một mình bằng xe mô tô BKS 34G1-007.xx đến. A2 hỏi A1 “đi đâu đấy”, A1 trả lời “T bị trêu ở C, đi xuống đấy xem thế nào” - Ý là A1 rủ A2 đi xuống C để tìm đánh người đã trêu T, A2 hiểu, đồng ý và nói với A1 “đi thôi”. A1 chở Q đi trước, A2 đi một mình phía sau gặp A4 đi bộ trên đường, A2 bảo A4 lên xe chở A2 đi có việc. A4 hỏi có việc gì, A2 nói T bị trêu và đi tìm người trêu T để đánh, A4 đồng ý. Cùng lúc đó N điều khiển xe mô tô (không rõ BKS, do N mượn của bạn tên L, không xác định được họ, tên đệm và địa chỉ ở thành phố Hải Phòng) đang đi trên đường nhìn thấy A1 chở Q, A4 chở A2 đi về hướng thôn M, xã T nên N tự đi theo. Khi đi đến ngã 3 đầu thôn M, A1 chở Tâm rẽ phải đi theo lối đường trong thôn đến xã T, còn A4, A2, N rẽ trái ra hướng ngã 4 C để tìm T và người đã trêu T để đánh.

Khi đến ngã tư C, A4, A2, N gặp T, T nói “có hai thằng trêu em, một thằng đi xe Exciter màu đỏ - trắng, một thằng đi xe màu đỏ, đang đi về đầu làng anh” (thôn M) - Ý T bảo mọi người đuổi theo anh E và anh V để đánh, A2, A4, N đồng ý. Ngay sau đó A4 chở A2 đuổi theo trước, N và T mỗi người điều khiển một xe đuổi theo sau. Khi đi đến đoạn trường tiểu học xã T, thấy anh V, anh E thì A4 đi chậm lại để A2 gọi điện thoại từ số 0352.387.xxx của mình đến số 0964.321.xxx bảo Nguyễn Trung A3 đi ra bia đá (đầu thôn M) cùng mọi người chặn đánh anh V và anh E. Sau đó A4 chở A2, T và N cùng đi vượt lên trước anh V, anh E về đoạn bia đá đứng đợi.

Sau khi nhận điện thoại từ A2, A3 đi bộ từ nhà ra bia đá, khi đó Vũ Đức A cũng đi xe đạp điện ra bia đá chơi. Lúc này, T nói với A3, Đức A, A2, A4, N chặn đánh cảnh cáo anh V và anh E vì đã trêu T, tất cả đều đồng ý. A3 hỏi “hai thằng ở đâu”, T nói “ở đầu làng em”, rồi A2 dắt xe mô tô BKS 34G1-007.xx cùng A3 đi ra giữa đường, mỗi người đều cầm trên tay dây thắt lưng da, Đức A mượn dây thắt lưng của A4, N đi ra phía sau bia đá nhặt 1/2 viên gạch để chặn đánh.

Khi anh V và anh E đi đến, T nói với cả bọn “hai thằng nó đấy” thì A3 vụt dây thắt lưng trúng vai phía sau anh V, anh V và anh E phóng xe bỏ chạy. A2 điều khiển xe mô tô BKS 34G1-007.xx chở A3 đuổi theo, Đức A điều khiển xe của T chở T, N vứt 1/2 viên gạch đi, điều khiển xe chở A4 đuổi theo. Anh V và anh E đi đến khu vực trước Nhà nghỉ T thì C và A3 đuổi kịp chặn đầu làm xe anh E bị đổ, anh V phải dừng xe lại. Ngay lúc này A2, Đức A dùng dây thắt lưng vụt anh E, A3 dùng dây thắt lưng vụt nhiều phát vào người anh V thì bị anh V đẩy ngã. A3 gọi điện cho anh trai mình là Nguyễn Mạnh I, sinh năm 1993 và nói bị đánh ở đầu làng, I thấy thế điều khiển xe mô tô BKS 34B3-851.xx ra xem sự việc như thế nào. Anh V và anh E bỏ chạy ra đường Tỉnh lộ 392 về hướng P, A4, N, A2, Đức A, A3 đuổi theo. Anh V chạy vào trong quán phở của anh Vũ Đình I, sinh năm 1974 ở thôn M, xã T, còn anh E chạy thẳng về hướng P. A4, N, A2, Đức A, A3 lao vào trong quán phở, A2 dùng chân tay không, A3 và Đức A dùng dây lưng vụt anh V. Lúc này anh Nguyễn Mạnh I có mặt thấy A3 đang đánh nhau nên vào can ngăn thì bị anh V dùng tay đấm vào mặt, thấy vậy anh Nguyễn Mạnh I dùng tay đấm anh V. Cùng lúc này A4 lao vào đánh anh V thì bị anh Vũ Đình I đuổi ra ngoài và đóng cửa quán lại. N phát hiện thấy anh E đang chạy về hướng P, xã T liền nhặt 1/2 viên gạch ở đường đuổi theo ném trúng đầu làm anh E bị thương tích.

Trong lúc nhóm của A3 đuổi đánh anh V và anh E thì T đứng trông xe cho mọi người ở trước cửa Nhà nghỉ T. Cùng thời gian này, H chở chị R đi đến thấy T liền dừng lại, H dùng dao đâm thủng 2 lốp xe của anh V (dao của chị R đưa cho H để đến quán ngồi uống nước sẽ gọt hoa quả ăn). Sau đó T, H và chị R cùng đi về phía đường Tỉnh lộ 392.

Đối với Lê Xuân A1, sau khi được T nói về việc bị trêu đã điều khiển xe mô tô đi tìm người đã trêu T để đánh (sau này A1 biết đó là anh V và anh E), trên đường đi A1 gặp và rủ A2 cùng đi tìm đánh. Khi đi vào đường trong thôn M ra đường Tỉnh lộ 394 rồi quay lại ngã 4 C nhưng không gặp ai, A1 gọi điện cho T hỏi đang ở đâu thì T nói đang ở bia đá. A1 đi đến bia đá nhưng không thấy ai nên gọi điện cho N hỏi đang ở đâu, N nói đang ở đầu đường 392. A1 biết là nhóm của mình đang đuổi đánh, nên A1 tiếp tục đi xe đến để cùng đồng bọn đánh anh E và anh V. Sau khi A1 gọi điện, N quay lại quán phở của anh Vũ Đình I thì C đi đến nơi. A2, A3, A4, Đức A đang đứng trước quán chửi, N nói với cả nhóm “còn thằng nữa chạy trên kia” (ý là anh E đang bỏ chạy về hướng P). Thấy vậy A2 chở A3, N chở A4 phóng xe đuổi theo tìm đánh anh E. Lúc này, anh Nguyễn Mạnh I đuổi theo can ngăn không cho A3 đánh nhau, Đức A thấy vậy lên ngồi phía sau xe của anh Nguyễn Mạnh I, A1 chở R đi về hướng P, mục đích của Đức A và A1 tiếp tục đi tìm đánh anh E. Khi thấy nhóm của A1 đuổi phía sau, anh Nam sợ hãi chạy vào vườn nhà ông Vũ Đức P sinh năm 1963, rồi chạy dọc theo bờ ao nhảy qua tường vào nhà chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1980 ở rìa đường Tỉnh lộ 392 thuộc thôn M, xã T và được gia đình chị M sơ cứu. Anh Nguyễn Mạnh I đi đến nơi yêu cầu A3 về nhưng A3 không nghe nên anh I vòng xe đi về nhà trước. N, A3 bật đèn pin điện thoại, A1 cầm gậy tre cùng A2, A4, Đức A đi vào vườn tìm đánh anh E nhưng không thấy. A1 và Đức A đi vào trong nhà hỏi nhưng ông P nói không biết nên cả nhóm quay về bia đá ngồi chơi, đến 23 giờ cùng ngày thì tất cả đi về nhà. Anh V bị thương tích nhẹ, bầm tím ở tay và lưng nhưng không phải đi điều trị. Anh E bị thương tích ở vùng đầu gây vỡ lún xương thái dương bên trái được chị M sơ cứu, sau đó đưa đi bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, rồi chuyển đến Bệnh viện Việt Đức điều trị từ ngày 02/8/2019 đến 07/8/2019.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 218/TgT ngày 15/10/2019 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương kết luận: Anh E bị chấn thương gây vỡ lún xương thái dương bên trái, dập não. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 47%.

Kết luận định giá số 08 ngày 21/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Bình Giang kết luận: Xe mô tô BKS 34B4- 199.xx của anh Nguyễn Văn V bị hư hỏng 02 lốp, thiệt hại 1.800.000 đồng.

Anh Nguyễn Văn V bị thương tích nhẹ, không phải đi chữa trị ở đâu. Ngày 07/01/2020, anh V từ chối giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể và có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho các bị can.

Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày 26/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, h, n, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 90, Điều 98, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự. Điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo Vũ Thị T.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Quang N.

Căn cứ Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với các bị cáo.

Tuyên bố các bị cáo Vũ Thị T, Vũ Quang N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

 Xử phạt:

- Bị cáo Vũ Thị T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Bị cáo Vũ Quang N 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/6/2020.

Ngoài ra, bản án còn tuyên bố về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo còn lại trong vụ án, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 08/10/2020, bị cáo Vũ Thị T kháng cáo đề nghị được xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Ngày 05/10/2020, bị cáo Vũ Quang N kháng cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Vũ Quang N vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Vũ Thị T vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo T trình bày: Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu:

Về tội danh: Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Vũ Thị T và Vũ Quang N về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về nội dung kháng cáo: Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo N là nguy hiểm cho xã hội, cấp sơ thẩm đã áp dụng mức hình phạt 7 (bẩy) năm 3 (ba) tháng tù đối với bị cáo là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đối với bị cáo T khi phạm tội đang có thai, hiện bị cáo đang nuôi con nhỏ, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng cho bị cáo được hưởng Điều 54 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 3 (ba) năm đến 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù.

Về án phí HSPT: Bị cáo T không phải chịu án phí HSPT, bị cáo N phải chịu án phí HSPT.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ, được chấp nhận để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người chứng kiến, kết luận giám định pháp y và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 01/8/2019, tại thôn M, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương, Vũ Thị T, Lê Xuân A1, Vũ Quang N, Vũ Ngọc A2, Vũ Xuân A4, Nguyễn Trung A3 và Vũ Đức A có hành vi dùng gạch, dây thắt lưng bằng da đầu gắn khóa bằng kim loại đuổi đánh anh Nguyễn Văn V và anh Nguyễn Văn E. Hậu quả làm anh E bị tổn hại 47% sức khỏe.

Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi dùng chân, tay, dây thắt lưng, gạch đánh, vụt, ném vào cơ thể người bị hại sẽ gây ra thương tích nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi với mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Chỉ vì nguyên cớ nhỏ nhặt các bị cáo đã dùng dây thắt lưng bằng da đầu gắn khóa bằng kim loại và gạch là hung khí nguy hiểm vụt, ném vào người bị hại, hậu quả làm anh E bị tổn thương cơ thể 47%. Các bị cáo phạm tội với hai tình tiết định khung ở khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự là dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ và với tổn thương cơ thể của anh E là 47% nên Tòa án nhân dân huyện Bình Giang xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của các bị cáo, HĐXX NHẬN THẤY

Bị cáo T và bị cáo N đều có nhân thân thân tốt. Không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; các bị cáo cùng với các bị cáo khác đã bồi thường cho bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo T có thai trong quá quá trình khởi tố, điều tra, truy tố nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo T là người khởi xướng nên giữ vai trò thứ nhất, bị cáo N là người thực hành tích cực nên bị cáo đồng phạm với vai trò thực hành. Hành vi các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật, vì những nguyên cớ nhỏ nhặt các bị cáo đã sử dụng hung khí xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ.

Tại giai đoạn phúc thẩm, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo tuy nhiên tình tiết này đã được áp dụng tại cấp sơ thẩm nên không được coi là tình tiết giảm nhẹ mới để áp dụng đối với các bị cáo. Do vậy, kháng cáo của các bị cáo không có căn cứ nên không được chấp nhận. Mặt khác cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” theo điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không phù hợp bởi hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện mục đích truy sát bị hại đến cùng và gây thương tích 47% cho bị hại. Do vậy, không áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; xử phạt bị cáo Vũ Quang N 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/6/2020 là phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo. Do không có kháng cáo, kháng nghị về việc tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo nên cần sửa một phần bản án về áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và giữ nguyên mức hình phạt đối với các bị cáo.

Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp nhận kháng cáo của bị cáo T và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự sửa bản án hình sự sơ thẩm đề nghị xử phạt bị cáo T từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù là không có căn cứ nên HĐXX không chấp nhận.

[4] Về án phí HSPT:

Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo T, N phải chịu án phí HSPT theo quy định.

[ 5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ Thị T, Vũ Quang N về phần hình phạt đối với các bị cáo. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 48/2020/HSST ngày 26/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương về việc không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Thị T, Vũ Quang N.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, n, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 90, Điều 98, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo Vũ Thị T.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Quang N.

Căn cứ Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo T và bị cáo N.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Thị T, Vũ Quang N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Vũ Thị T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

 - Bị cáo Vũ Quang N 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/6/2020.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vũ Thị T, Vũ Quang N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 11/12/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 132/2020/HS-PT ngày 11/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:132/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;