TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 132/2019/HSST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐ-TA ngày 24 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Ngô Văn T; Sinh năm: 1971 tại H; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký HKTT và cư trú: Cụm 3, phường X, quận T, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 6/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do (Nhân viên bảo vệ bán thời gian); Họ tên bố: Ngô Văn Th; Sinh năm: 1942; Già yếu; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L; Sinh năm: 1941; Già yếu; Họ tên vợ: Nguyễn Thị Th; Sinh năm: 1976; Có 03 con( Con lớn sinh năm 2002 - bị chậm phát triền trí tuệ, con nhỏ sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 06/01/2019, hủy bỏ quyết định tạm giữ ngày 15/01/2019, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Thị Th; Sinh năm: 1976; Giới tính: Nữ; Nơi đăng ký HKTT và cư trú: Cụm 3, phường X, quận T, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Nội trợ; Họ tên bố: Nguyễn Minh Kh (Đã chết); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T1 (Đã chết); Họ tên chồng: Ngô Văn T; Sinh năm: 1971; Có 03 con ( Con lớn sinh năm 2002 - bị chậm phát triền trí tuệ, con nhỏ sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 06/01/2019, hủy bỏ quyết định tạm giữ ngày 15/01/2019, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đầu năm 2018, hai vợ chồng bị cáo Ngô Văn T và Nguyễn Thị Th mở quán nước tại đối diện số nhà 5xx, đường Nguyễn Hoàng Tôn, phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đến khoảng tháng 8/2018, qua các mối quan hệ xã hội, bị cáo T biết đối tượng tên Ngọc sử dụng số điện thoại 0976391916 có nhận bán các số lô, số đề nên bị cáo đã bàn với vợ là bị cáo Th bán thêm số lô, số đề cho khách kiếm lời. Bị cáo Th đồng ý. Sau đó bị cáo T đã trao đổi với Ngọc sẽ ghi các số lô, số đề cho khách chơi sau đó chuyển lại cho Ngọc để hưởng tiền chênh lệch, Ngọc thỏa thuận với bị cáo 01 điểm lô là 22.000 đồng, 10.000 đồng lô xiên Ngọc thu 6.500 đồng, 10.000 đồng tiền đề Ngọc thu 7.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số miền bắc mở thưởng nếu trúng Ngọc trả 01 điểm lô là 80.000 đồng; 10.000 đồng tiền đề được 700.000 đồng, 10.000 đồng lô xiên 2 được 100.000 đồng, lô xiên 3 được 400.000 đồng, lô xiên 4 được 1.000.000 đồng. Bị cáo T sử dụng số điện thoại 0969630859 nhắn tin các số lô, số đề khách chơi đến số điện thoại 0976391916 của Ngọc và thanh toán tiền thắng thua hằng ngày trực tiếp tại quán nước của bị cáo hoặc tại nhà của Ngọc. Đối với khách mua số lô, số đề, các bị cáo thỏa thuận như sau: Căn cứ vào kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng hằng ngày, quy định với số lô tùy vào hai số cuối của 27 giải thì khách thắng; với số đề lấy hai số cuối của giải đặc biệt, với số lô xiên hai, xiên ba, hoặc bốn thì lấy hai, ba, hoặc bốn số lô khách chọn làm căn cứ trúng thưởng. Đối với khách có nhu cầu ghi số lô số đề, các bị cáo sẽ ghi các số lô, số đề khách chơi vào một tờ giấy (Tích kê) có kích thước 7x12 cm và kí tên các bị cáo và tờ giấy đó. Sau khi giao cho khách tích kê, các bị cáo nhập các số lô, số đề khách ghi trong ngày vào 01 tờ giấy có kích thước khoảng 20x30 cm để theo dõi. Đối với khách quen, các bị cáo thỏa thuận với khách chơi 01 điểm lô là 23.000 đồng,10.000 đồng tiền đề thu của khách 9000 đồng, 10.000 đồng lô xiên thu của khách 9000 đồng. Đối với khách lạ, các bị cáo đủ số tiền khách chơi. Sau khi có kết quả xổ số miền bắc, khách trúng sẽ mang tích kê đến, các bị cáo sẽ thanh toán trực tiếp theo mức đã thỏa thuận với Ngọc. Sau khi chuyển các số lô, số đề cho Ngọc, 01 điểm lô các bị cáo được hưởng lợi 1.000 đồng, 10.000 đồng tiền đề hưởng lợi 1.500 đồng đến 2.500 đồng, 10.000 đồng lô xiên hưởng lợi 2.500 đến 3.500 đồng.
Hồi 18 giờ 00 phút, ngày 05/01/2019, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an quận Bắc Từ Liêm tuần tra kiểm soát phòng chống tội phạm trên tuyến đường Nguyễn Hoàng Tôn thuộc địa bàn phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã bắt quả tang bị cáo T cùng bị cáo Th đang có hành vi bán số lô, số đề cho Đinh Văn H (Sinh năm: 1986; Địa chỉ: Tổ 1, phường X, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội) và Nguyễn Văn A (Sinh năm 1977; Địa chỉ: Tổ 6, phường C, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội) tại đối diện số nhà 5xx, đường Nguyễn Hoàng Tôn, phường Xuân Đỉnh. Vật chứng thu giữ: 20.866.500 đồng; 01(một) bảng số lô, số đề được viết trên tờ giấy loại A4 có kích thước khoảng 20x30 cm; 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Lenovo lắp sim số 0969630859 (Thu của bị cáo T); 01(một) cáp ghi số lô, số đề kích thước 7x12 cm; có ghi các số lô 34,43 mỗi số 10 điểm; các số đề 34,44 mỗi số 50.000 đồng cùng chữ ký của bị cáo Th (thu của Hùng); 01(một) tờ giấy màu trắng, kích thước 7x12 cm; ghi những số lô: 49, 94, 16, 61, 29, 92 ngày 05/01/2019 cùng chữ ký của bị cáo T.
Ngày 05/01/2019, các bị cáo đã bán các số lô, số đề cho khách với số tiền như sau: Tổng số điểm lô là 839 điểm tương đương với số tiền 19.297.000 đồng; Tổng số tiền đề là 2.860.000 đồng (số tiền thực thu của khách là 2.589.000 đồng); Tổng số tiền lô xiên khách ghi là 1.230.000 đồng, số tiền thực thu của khách là 1.107.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo tổ chức đánh bạc ngày 05/1/2019 là: 22.993.000 đồng. Trong đó, các bị cáo bán số lô, số đề cho Đinh Văn H và Nguyễn Văn A cụ thể: Bị cáo T bán cho anh Nguyễn Văn A các số lô: 49,94,16,61,29,92 mỗi số 05 điểm, tổng cộng là: 690.000 đồng; Bị cáo Th bán cho anh Đinh Văn H các số lô, số đề: Số lô: 34,43 mỗi số 10 điểm, Số đề: 43,34,44 mỗi số 50.000 đồng, tổng cộng là: 610.000 đồng. Do anh H là khách lần đầu ghi nên Th đã thu đủ số tiền đề là 150.000 đồng. Tổng số tiền ghi số lô, số đề ngày 05/01/2019 là 22.993.000 đồng nhưng số tiền thu được tại thời điểm bắt quả tang là 20.866.500 đồng là do có một số khách chơi ghi nợ. Các bị cáo khai đã ghi số lô, số đề cho khách từ tháng 8/2018, nhưng sau mỗi ngày các bảng ghi số lô, số đề đều bị hủy. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không thu giữ được tài liệu nào chứng minh việc ghi số lô, số đề của các bị cáo từ tháng 8/2018 đến trước khi bị bắt quả tang nên không có căn cứ để xử lý.
Ngày 06/01/2019, Cơ quan điều tra dẫn giải bị cáo T đến địa điểm bị cáo chuyển bảng số lô, số đề và thanh toán tiền cho đối tượng tên Ngọc sử dụng số điện thoại 0976391916 tại địa chỉ số 1xx, đường Nguyễn Hoàng Tôn, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Công an phường Xuân La cung cấp tại địa chỉ trên không có ai tên Ngọc, chủ hộ là anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1971 và chị Lương Thị Th, sinh năm 1976. Kết quả xác định chủ thê bao số điện thoại trên là bà Đinh Thị M, sinh năm: 1962; HKTT: Phường P, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Bà M không biết và cũng không có mối quan hệ gì với Lương Thị Th. Bà Mi không đăng ký số thuê bao 097639191 và cũng không cho ai mượn chứng minh nhân dân để đăng kí số điện thoại này. Lương Thị Th quen biết các bị cáo nên thỉnh thoảng bị cáo T có đến nhà Th và Th có đến quán nước trên đường Nguyễn Hoàng Tôn của các bị cáo uống nước, mua thẻ điện thoại. Th không mua bán số lô, số đề, không nhận số lô, số đề của ai và không biết cũng như không sử dụng số điện thoại 0976391916. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tổ chức nhận dạng và bị cáo T đã nhận ra ảnh của Th chính là đối tượng “Ngọc” nhận bảng số lô, số đề của T. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành đối chất, tuy nhiên Th không nhận đã nhận bảng số lô, số đề của bị cáo T. Bị cáo Th không biết bị cáo T có chuyển số lô, số đề của khách cho người nào không. Ngoài lời khai của bị cáo T, không có chứng cứ nào liên quan đến việc nhận bảng số lô, số đề của Lương Thị Th nên không có căn cứ xem xét xử lý Th.
Các anh Đinh Văn H và Nguyễn Văn A đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề nhưng giá trị tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng do đó ngày 11/4/2019, Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép đối với Đinh Văn H và Nguyễn Văn A.
Tại Cáo trạng số 110/CT-VKS ngày 09/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố các bị cáo Ngô Văn T và Nguyễn Thị Th về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Văn T mức án từ 16 đến 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách từ 32 đến 40 tháng; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th mức án từ 14 đến 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách từ 28 đến 32 tháng; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo; Tịch thu sung quỹ số tiền 20.866.500 đồng; Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Lenovo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Ngày 05/01/2019, tại đối diện số nhà 5xx, đường Nguyễn Hoàng Tôn, phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, các bị cáo Ngô Văn T và Nguyễn Thị Th có hành vi bán trái phép số lô, số đề trị giá 22.993.000 đồng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của các bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với các bị cáo được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng. Việc tổ chức đánh bạc được thua bằng tiền dưới mọi hình thức đều phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi nên vẫn thực hiện. Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm với vai trò là người thực hành nhưng bị cáo T có vai trò cao hơn, là người chủ động bàn bạc với bị cáo Th thực hiện hành vi phạm tội.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa bị xử lý hành chính hay hình sự; Hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, có ba con nhỏ trong đó có con thứ nhất bị chậm phát triển trí tuệ, không tự chăm sóc được bản thân, cần người chăm sóc.
- Hình phạt chính: Đối với các bị cáo cần áp dụng một hình phạt tù, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo. Căn cứ vào tính chất của tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân các bị cáo thấy không cần bắt buộc các bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao các bị cáo về chính quyền địa phương quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.
- Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
- Vật chứng vụ án: Số tiền số tiền 20.866.500 đồng thu giữ của bị cáo Th là số tiền bị cáo bán trái phép số lô, số đề nên cần tịch thu sung công quỹ. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Lenovo thu giữ của bị cáo T liên quan đến tội phạm, cần tịch thu sung công quỹ.
- Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, cơ quan điều tra, điều tra viên, cơ quan kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố theo đúng tội danh, khung hình phạt.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Ngô Văn T và bị cáo Nguyễn Thị Th phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự
2.1. Xử phạt bị cáo Ngô Văn T 16 (Mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 32 (Ba mươi hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 14 (Mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 28 (Hai mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường X, quận T, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong thời hạn thử thách thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
3. Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí.
3.1. Tịch thu sung công quỹ số tiền 20.866.500 đồng và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Lenovo, gắn sim số 0969630859 (Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 161 ngày 10/5/2019)
3.2. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 132/2019/HSST ngày 18/06/2019 về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 132/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về