TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 132/2017/HS-ST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26/9/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 139/2017/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:
Lường Văn N (tên gọi khác: không), sinh ngày 26/9/1989, tại thành phố Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ D, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Lường Văn T (đã chết) và bà Lê Thị L, sinh năm 1968; Bị cáo có vợ Lê Thị Thùy L, sinh năm 1991 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2011; Tiền án: không; Tiền sự: 01 (một) tiền sự ngày 25/5/2017 bị Công an tỉnh Sơn La ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Lường Văn N bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 17 giờ 00 phút ngày 02/6/2017 tại khu vực Tổ 09, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Lường Văn N bị tổ công tác Công an phường Quyết Thắng phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm:
01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng (thu giữ của N, tự giác lấy từ túi quần bên phải phía trước đang mặc trên người ra giao nộp) N khai nhận là Hêrôin;
01 (một) chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu FPT màu đỏ, đen đã qua sử dụng.
Quá trình điều tra Lường Văn N khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/6/2017, Lường Văn N đi bộ từ nhà ra đường đón xe chở khách xuống khu vực Tổ 5, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, tại đây N gặp và được một người bạn tên là Nam (nhà ở Tổ 1, phường Chiềng Sinh) cho 01 (một) gói Hêrôin để sử dụng. N cầm gói Hêrôin lấy ra sử dụng một ít, số còn lại cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc. Khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày N mang số ma túy trên người rồi đi đến khu vực Tổ 9, phường Quyết Thắng để mua đồ thì bị công an phát hiện và bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng thu giữ.
Ngày 02/6/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng cân tịnh vật chứng thu giữ của Lường Văn N có trọng lượng 0,14 gam, lấy toàn bộ 0,14 gam làm mẫu giám định, ký hiệu LN.
Tại Kết luận giám định số 576/KLMT ngày 09/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: mẫu gửi giám định ký hiệu LN là chất ma túy; Loại chất Hêrôin; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,14 gam. Trọng lượng ma túy thu giữ được là 0,14 gam. Loại chất Hêrôin.
Về nguồn gốc số Hêrôin bị thu giữ: Bị cáo Lường Văn N khai bạn N tên Nam nhà ở Tổ 1, phường Chiềng Sinh đã cho N để sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra xác minh nhưng không có người nào tên Nam có đặc điểm như N khai nhận. Ngoài lời khai của N ra không có căn cứ nào để xác minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.
Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 108/KSĐT ngày 07/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Lường Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lường Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lường Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt Lường Văn N từ 20 (hai mươi) đến 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở.
Trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động FPT màu đỏ đen đã qua sử dụng.
Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Lường Văn N nhận tội và không có ý kiến tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Do nghiện chất ma túy, ngày 02/6/2017, Lường Văn N đã có hành vi cất giấu trái phép 0,14 gam, loại chất Hêrôin với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực Tổ 09, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:
Lời khai nhận tội của bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 15 phút ngày 02/6/2017 tại Tổ 9 phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Lường Văn N cùng vật chứng thu giữ là 0,14 gam hêrôin; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 576/KLMT ngày 09/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Mai Văn N, sinh năm 1965, trú tại Tổ N, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.
Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lường Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Lường Văn N phạm tội với trọng lượng 0,14 gam, loại chất Hêrôin, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có 01 (một) tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,14 gam Hêrôin nhằm mục đích sử dụng.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Trong khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng điểm h,i khoản 2 Điều Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 về việc áp dụng điều khoản có lợi cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, khung hình phạt của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó cần xem xét áp dụng khung hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với nguồn gốc 0,14 gam ma túy Lường Văn N khai nhận đã được một ngươi nam giới tên Nam nhà ở Tổ 1, phường Chiềng Sinh cho, qua xác minh trên địa bàn không có ai tên là Nam như bị cáo miêu tả, ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liện chứng cứ nào để chứng minh, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy có trong vụ án.
Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ban đầu, 01 (một) mảnh giấy bạc.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đỏ, đen là tài sản của bị cáo không sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội cần trả cho bị cáo.
Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lường Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h, i khoản 2, Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt Lường Văn N 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 02/6/2017.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi” Vật chứng lưu kho vụ Lường Văn N – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 02/6/2017 gồm: “01 (một) phong bì niêm phong ban đầu, 01 (một) mảnh giấy bạc” mặt sau có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong.
Trả lại cho bị cáo Lường Văn N 01 chiếc điện thoại di động FPT màu đỏ đen đã qua sử dụng số Imei 1: 980056006140012, số Imei 2:980056006241018, đã qua sử dụng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lường Văn N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 26/9/2017./.
Bản án 132/2017/HS-ST ngày 26/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 132/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về